TÌM HIỂU VỀ LÀNG CỔ DUY TINH

TÌM HIỂU VỀ LÀNG CỔ DUY TINH

Nhân kỷ niệm 990 năm danh xưng Thanh Hóa (1029-2019)

TÌM HIỂU VỀ LÀNG CỔ DUY TINH

1 – Làng cổ Duy Tinh có tự bao giờ?
Trước thời nhà Lý, Thanh Hóa là quận Cửu Chân, lỵ sở quận Cửu Chân đóng tại làng Giàng Thiệu Hóa. Khi Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long năm 1010, chia nước ta làm 24 lộ. Vua Lý chuyển lỵ sở lộ Thanh Hóa từ Làng Giàng (Thiệu Hóa) về làng Duy Tinh (Hậu Lộc)
Như vậy: LÀNG DUY TINH CÓ TRƯỚC THỜI NHÀ LÝ.
Cứ liệu này khẳng định LÀNG DUY TINH ĐÃ HƠN NGÀN NĂM TUỔI
Hội thảo khoa học Lịch sử về danh xưng Thanh Hóa kết luận: lấy năm 1029 là năm ra đời danh xưng Thanh Hóa.
Như vậy: DANH XƯNG THANH HÓA RA ĐỜI TẠI LÀNG DUY TINH.

2 – Lỵ sở Thanh Hóa đóng tại làng Duy Tinh.
Có hai cứ liệu xác định rõ lỵ sở Thanh Hóa ở làng Duy Tinh;
a) Cứ liệu Văn Bia:
– Văn bia chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh dựng năm 1118 (Hiện còn ở chùa
làng Duy Tinh).

Nội dung Văn Bia ghi:
Tháng hai năm Bính Thân niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ bảy (1116), nhà vua đi tuần Phương Nam, đến địa hạt châu Ái. Thuyền rồng đậu lại; xe loan tạm dừng. Cờ xí lòa trời; vũ vệ ngợp mây… Ngoài nơi biên tái; được gội ơn sâu. Thực là việc ngàn năm khó gặp, là vinh hạnh sâu sắc của cả một vùng.”
Đây là chuyến tuần du phương Nam của vua Lý Nhân Tông, nắm tình hình và kiểm tra công việc của quan địa phương. Đương nhiên vua phải về lỵ sở của Thanh Hóa. Sau khi vua hồi cung, nhằm phúc đáp ơn vua và chúc quốc vận trường tồn, quan trị nhậm Thanh Hóa bấy giờ là Thông phán họ Chu, quyền coi quận Cửu Chân đã cho trùng tu chùa Sùng Nghiêm và dựng bia đá ghi lại sự kiện này, hoàn thành vào năm 1118.
– Văn bia chùa Linh Xứng dựng năm 1126 ở xã Hà Ngọc – Hà Trung ghi:
Đầu năm Anh Vũ Chiêu Thắng, Thái úy được phong làm em nuôi vua, trông nom mọi việc quân ở các châu thuộc trấn Thanh Hóa, quận Cửu Chân, châu Ái và phong cho thái ấp một vạn hộ ở Việt Thường.” … “Thái úy lại dẫn những người tùy tùng, dời thuyền di về phía Tây, qua dòng sông trong Nam Thạc, đến ấp nổi danh Đại Lý. Dạo bước bến đò, đưa mắt xem xét, thấp thoáng thấy ở trong quận, cách quận lỵ độ chừng năm dặm, có hòn núi trơ vơ gọi là Ngưỡng Sơn.”
Lý Thường Kiệt làm tổng trấn Thanh Hóa 19 năm, từ 1082 đến 1101. Ông có công lao lớn đối với Thanh Hóa. Ông tuần du nhiều nơi, đã đến núi Ngưỡng Sơn (Hà Ngọc nay). Từ đây cách quận lỵ chừng năm dặm, tức là cách quận lỵ ở làng Duy Tinh chừng năm dặm
b) Cứ liệu thực điạ:
Hiện nay tên những địa danh trong làng Duy Tinh còn lưu lại, mọi người đều biết:
– ĐỒN: Thành trì lộ Thanh Hóa xưa gọi là ĐỒN – là khu đất hiện nay Trường THPT Hậu Lộc II.
– XÓM VŨ: Nơi dành cho quan võ ở (Nay là thôn Tinh Lộc)
– CỒN VŨ: Cuối xóm Vũ là nơi luyện quân
– BỜ LŨY: là dải đất cao để phòng vệ quân Chiêm từ biển vào, từ khu ĐỒN chạy ra tận đường đi làng Mỹ Điện
– HÀO: Phía trong bờ lũy, xưa đào sâu để hành quân. Sau này là ruộng gọi là ruộng Hào, thường trồng nếp hạt cau.
– CỒN CHIÊNG – CỒN TRỐNG: Phía ngoài bờ lũy, nơi đặt chiêng, trống
– CỒN THUYỀN: Cạnh Vươn, nơi tập kết thuyền ra sông Hà Mát đánh chặn quân Chiêm Thành.
– LĂNG: Khu nghĩa địa dành chôn người nhà quan (Nay là Nghĩa địa làng Mỹ Điện)
– VĂN MIẾU: Khu thờ Khổng Tử và là nơi sĩ tử trong tỉnh về dự thi. Khu Văn Miếu ở bên kia cầu sang làng Hà Sen. Thời chống Pháp làm Trường học. Sau này phá Văn Miếu xây dựng bệnh viện Hậu Lộc
– BẾN TẨY: Ở đầu Ghềnh là bến tắm của sĩ tử, trước khi vào Văn Miếu tế lễ.
– HIỆN VẬT: Trong thời kỳ chống Mỹ, khi khai thác đất làm gạch ở khu ĐỒN, nhiều người đào được đồ gốm thời Lý – Trần, đầu rồng thời Lý, gạch bát khổ to ghi rõ niên đại nhà Trần…tiền đồng, bát sứ…Bấy giờ cả nước bận đánh giặc; không ai quan tâm chuyện Lịch sử, nên các hiện vật ấy họ bán đi mất cả. Khu ĐỒN dành cho cơ quan Lương Thực làm kho, sau này xây dựng Trường cấp 3 Hậu Lộc II, bây giờ không thể khai quật. Năm 2012 chúng tôi có tìm được cổ rồng bằng gốm ở bờ Ao Sen (Xem ảnh), đưa về chùa không biết có còn không

Bằng cứ liệu trên hai văn bia, địa danh và nhiều hiện vật còn lại ở Chùa; minh chứng:
– Duy Tinh là một làng cổ đã hơn ngàn năm tuổi.
– Duy Tinh còn là lỵ sở (trụ sở) Thanh Hóa qua hai triều đại Lý – Trần (1029 – 1400)

                                                           Nguyễn Quý Phong

Xem thêm

Nội dung mặt trước bia Trùng tu Phượng Hoàng thị kiều bi

Nội dung mặt trước bia Trùng tu Phượng Hoàng thị kiều bi

* Nguyên văn chữ Hán : 重修鳳凰市橋碑 重修鳳凰橋施本府市牛市為三寶碑銘 常謂水上爲梁所以度行人之來往日中爲市所以通天下之貨財惟此鳳凰橋本府市介在永福淳祐之間土高爽塏地廣坦平行客之所往来貨財之所貿易真湯沐邑中大去大来大都會處也迩因星霜屡阕風景頓殊時人不能無燕麥鬼葵之感。 恭惟 世宗毅皇帝老皇皇太后以天下母爲佛中聖心福地目慈天發無量之心種將来之福當時達官及諸善信人咸願爲之助費閨錢腰帯怡然壹舍荆木昆瓦駢然四来廼於。 弘定拾五年柒月拾弍日旦伐蠲恊穀徠起鳩工離娄之明以督其绳公輸之巧以削其墨經之营之不浹旬而未雨之龍止齎之虹已橫跨於波上矣水由地中行人從橋上達原本府市玆施三寳致天下之人聚天下之貨商賈之居行共便貨財之貿易皆通举欣欣然誾誾然於帝日帝天之下咸熙熙焉皡皡焉於王途王路之中會其有極歸于有極普荷吾。 帝王萬萬年建極錫福之功大矣是則斯橋之作斯市之施其及人之功之德顧可量耶以此河沙慶善于祿百福于其身于其子孫穆穆皇皇绵绵延延祚胤处处基圖鞏固其億萬年無彊之休乎。 銘曰: 帝鄉福地,鳳凰橋名,規摸雄麗,制度恢宏,雲飛畫棟,雨捲惟亮,棟扶圖祚,磐奠瑤京,義取噬嗑,市会日中

By Quý Phong