Ngày cập nhật:

LÀNG TÔI – Kỳ 3

Chợ Phủ Duy Tinh Trang Thơ

Chương thứ hai

MỘT THỜI ĐỂ NHỚ           Tiếp Chương Thứ II - Kỳ 3

2 * LÝ THƯỜNG KIỆT VỚI TRẤN THANH HOA

Những năm đầu kinh bang tế thế Nước Việt ta, nhà Lý khang bình Thánh Tông niên hiệu Thái Ninh (1075) Bốn phương tám hướng, an lành vang ca

Bỗng giặc Tống tràn qua gây hấn Lửa chiến chinh oán hận dâng cao Toàn dân lại đổ máu đào Giữ từng tấc đất, biển trời giang sơn

Với dũng khí “Thế thiên hành đạo” Hịch vang truyền, mách bảo xung thiên Đất này là của Việt Nam Cớ sao bay dám tham tàn xâm lăng?

Đánh cho chúng chạy không mảnh giáp Trận oai hùng, Như Nguyệt lừng danh Giang sơn an lạc thái bình Công đầu Thường Kiệt sử xanh lưu truyền

Lý Nhân Tông, ban tuyên “Nghĩa Đệ” Là em vua, tứ trụ triều đình Giữ cho đất nước thanh bình Vua tin trao giữ đất lành Thanh Hoa (1084)

Người Thanh Hoa cờ hoa hoan hỉ Đón anh hùng xiết kể niềm vui Công lao mười chín năm trời Của ngài Thái Úy rạng ngời xứ Thanh

Lúc xuống biển, Lạch Trường - Diêm Phố Khi lên non, Quan Hóa - Thạch Thành Canh nông, dệt lụa, chăn tằm Ra khơi vào lộng, nghề rừng mở mang

Khai thác đá, thủ công mỹ nghệ Khuyến học hành, trí tuệ nâng cao Thuần phong mỹ tục đẹp sao Giữ gìn truyền thống bao đời ông cha

Sống nghĩa nhân, chăm già yêu trẻ Bậc anh hùng cái thế vì dân Dựng xây oai dũng việc quân “Ngụ binh” mạnh ở “Ư nông” hợp tình

Xây Đồn Lũy, Duy Tinh bốn mặt Thế vững vàng, nghiêm ngặt quân cơ Cồn Chiêng, cồn Trống, Cột cờ Điểm binh cồn Vũ, chói lòa thức mây

Thế vững chãi, nơi này chân vạc Giữ trời Nam, an lạc thái bình Bốn phương nhà Lý an lành Công Lý Thường Kiệt sử xanh lưu truyền

Mười chín năm, quản miền biên ải Quân Chiêm Thành, chúng lại xâm lăng Triệu hồi Thái Úy lai Cung (1103) Tám lăm tuổi lẻ, cầm quân lên đường

Mặc tuổi cao, gió sương chẳng ngại Khí xung trời, đánh bại quân Chiêm Tám bảy tuổi, Người quy tiên (1105) Trời Nam một cõi linh thiêng anh hùng

Về chốn cũ, trống không đâu thấy Đường cột cờ, chẳng mấy ai hay Cồn Chiêng, cồn Trống đất này Cồn Thuyền, cồn Vũ mất bay năm nào?

Đâu bờ Lũy, đâu Hào thuở ấy Thành quách kia, nào thấy dấu xưa Lãng quên lịch sử ai ngờ Cái tên cũng mất, biết giờ hỏi ai?

Trường cấp ba, đẹp oai vững chãi Trên khu Đồn, rộng rãi khang trang Biển Trường ghi rõ danh tên Số Hai Hậu Lộc của miền xứ Thanh

Ngàn vạn tỷ, xây đền tạc tượng Để tôn vinh, thần tượng hôm nay Lại quên ngay chính nơi đây Anh hùng Thường Kiệt, dựng xây trấn này

Mười chín năm, bề dày đâu ít Thanh Hóa nay, chỉ biết lộc trời Hưởng rồi chẳng nhớ ơn Người Khác nào ăn cháo, để rồi quên ngay

Làng Duy Tinh, còn may nhớ chuyện Tạc tượng Ngài, thỏa nguyện lòng dân Rước về Phật Tổ, Quan Âm Thờ ngài cung kính, thành tâm nguyện cầu

                                 Còn nữa….                          Nguyễn Quý Phong