Nội dung mặt trước bia Trùng tu Phượng Hoàng thị kiều bi

Nội dung mặt trước bia Trùng tu Phượng Hoàng thị kiều bi

* Nguyên văn chữ Hán :

重修鳳凰市橋碑

重修鳳凰橋施本府市牛市為三寶碑銘

常謂水上爲梁所以度行人之來往日中爲市所以通天下之貨財惟此鳳凰橋本府市介在永福淳祐之間土高爽塏地廣坦平行客之所往来貨財之所貿易真湯沐邑中大去大来大都會處也迩因星霜屡阕風景頓殊時人不能無燕麥鬼葵之感。

恭惟

世宗毅皇帝老皇皇太后以天下母爲佛中聖心福地目慈天發無量之心種將来之福當時達官及諸善信人咸願爲之助費閨錢腰帯怡然壹舍荆木昆瓦駢然四来廼於。

弘定拾五年柒月拾弍日旦伐蠲恊穀徠起鳩工離娄之明以督其绳公輸之巧以削其墨經之营之不浹旬而未雨之龍止齎之虹已橫跨於波上矣水由地中行人從橋上達原本府市玆施三寳致天下之人聚天下之貨商賈之居行共便貨財之貿易皆通举欣欣然誾誾然於帝日帝天之下咸熙熙焉皡皡焉於王途王路之中會其有極歸于有極普荷吾。

帝王萬萬年建極錫福之功大矣是則斯橋之作斯市之施其及人之功之德顧可量耶以此河沙慶善于祿百福于其身于其子孫穆穆皇皇绵绵延延祚胤处处基圖鞏固其億萬年無彊之休乎。

銘曰:

帝鄉福地,鳳凰橋名,規摸雄麗,制度恢宏,雲飛畫棟,雨捲惟亮,棟扶圖祚,磐奠瑤京,義取噬嗑,市会日中,貨財貿易,有無相通,又施三寶,以種陰功,人民蒙惠,永永無窮。

佛大會主。

世宗毅皇帝明妃老皇皇太后阮氏明瑞(邵天府瑞原縣蓝山鄉)。

简揮皇帝皇太后鄭氏玉楨。

世宗毅皇帝第壹公主棃氏玉貪。

简揮皇帝第壹公主棃氏玉祥。

简揮皇帝第弍皇子棃維正。

简揮皇帝第弎皇子棃維良。

世宗毅皇帝第弍嬪武氏玉貴(建昌府真定縣仁黄社)。

简揮皇帝嬪裴氏玉園(常信府上福縣仁賢社)。

弌功德

世宗毅皇帝第弍嬪棃氏玉篮号妙宗。

阮勃(指揮使署衞軍義澤侯惟精社)夫人棃氏森。

杜焉(殿前都校點司左校點参督力四衞軍務事坚義候惟壹社)夫人棃氏楊。

阮奠安(都指楎)夫人楊氏棬。

阮曰智(都指楎使朝铁候)夫人吴氏奮黄氏憲。

何有畧(指楎)夫人棃氏貪杜氏缘男子何有福何有德。

永祚萬萬年之九季春節榖日。

奉旨傳書寫錦衞断事西嶺伯棃明福(蓝山鄉廣施社)乙未科進士出身翊運賛洽功臣特進金紫荣祿大夫礼部尚書蒹翰林院侍讀掌翰林院事東閣學士少保芳蘭候慈東雲恬阮實樸甫撰。

諳曉玉石易局副阮文明局副阮曰當(才良)阮柳(嘉…縣…邦…社) 鐫。

* Phiên âm:

TRÙNG TU PHƯỢNG HOÀNG THỊ KIỀU BI

Trùng tu Phượng Hoàng (1) kiều thi bản phủ thị Ngưu thị vi Tam Bảo (2) bi, minh.

Thường vị thủy thượng vi lương, sở dĩ độ hành nhân chi lai vãng; nhật trung vi thị, sở dĩ thông thiên hạ chi hóa tài.

Duy thử Phượng Hoàng kiều, bản phủ thị, giới tại Vĩnh Phúc (3), Thuần Hựu (4) chi gian, thổ cao sảng khải, địa quảng thản bình, hành khách chi sở vãng lai, hóa tài chi sở mậu dịch, chân Thang Mộc (5) ấp trung, đại khứ, đại lai, đại đô hội xứ dã. Nhĩ nhân tinh sương lũ khuyết, phong cảnh đốn thù, thời nhân bất năng vô yến mạch, quỷ quì chi hám(6).

Cung duy:

Thế Tông nghị Hoàng đế (7) lão Hoàng Hoàng Thái Hậu dĩ thiên hạ mẫu vi Phật trung thánh tâm, phúc địa, mục từ thiên phát vô lượng chi tâm, chủng tương lai chi phúc; đương thời đạt quan cập chư thiện tín nhân hàm nguyện vi chi trợ phí, khuê tiền yêu đới, di nhiên nhất xá, kinh mộc, côn ngõa, biền nhiên tứ lai nãi ư.

Hoằng Định (8) thập ngũ niên thất nguyệt thập nhị nhật đán (9), phạt quyên hiệp cốc lai khởi cưu công, Ly lâu (10) chi minh dĩ đốc kỳ thằng, Công Thâu (11) chi xảo dĩ tước kỳ mặc, kinh chi, doanh chi, bất tiếp tuần nhi vị vũ chi long, chỉ tê chi hồng dĩ hoành khóa ư ba thượng hĩ.

Thủy do địa trung hành, nhân tòng kiều thượng đạt, nguyên bản phủ thị tư thi Tam Bảo, trí thiên hạ chi nhân, tụ thiên hạ chi hóa; thương cổ chi cư, hành cộng tiện, hóa tài chi mậu dịch giai thông, cử hân hân nhiên, ngân ngân nhiên ư đế nhật đế thiên chi hạ, hàm hi hi yên, hạo hạo yên, ư vương đồ vương lộ chi trung hội kì hữu cực quy vu hữu cực phổ hạ ngô.

Đế vương vạn vạn niên kiến cực tích phúc chi công đại hĩ. Thị tắc tư kiều chi tác, tư thị chi thi, kỳ cập nhân chi công đức, cố khả lượng da! Dĩ thử hà sa khánh thiện vu lộc, bách phúc vu kỳ thân, vu kỳ tử tôn, mục mục, hoàng hoàng, miên miên, diên diên, tô dận, xứ xứ cơ đồ củng cố, kỳ ức vạn niên vô cương chi hưu hồ.

Minh (12) viết:

Đế hương phúc địa. Phượng Hoàng kiều danh. Quy mô hùng lệ. Chế độ khôi hoành. Vân phi họa đống. Vũ quyển duy lương. Đống phù đồ tộ. Bàn điện dao kinh. Nghĩa thủ phệ hạp. Thị hội nhật trung. Hóa tài mậu dịch. Hữu vô tương thông. Hựu thi Tam Bảo. Dĩ chủng âm công. Nhân dân mông huệ. Vĩnh viễn vô cùng.

Phật Đại Hội Chủ.

Thời

Thế Tông nghị Hoàng đế minh phi, lão Hoàng Hoàng Thái Hậu Nguyễn Thị Minh Thụy (Thiệu Thiên phủ, Thụy Nguyên huyện, Lam Sơn hương)

Giản huy Hoàng đế (13) Hoàng Thái Hậu Trịnh Thị Ngọc Trinh.

Thế Tông nghị Hoàng đế, đệ nhất Công chúa Lê Thị Ngọc Thơm.

Giản huy Hoàng đế đệ nhất Công chúa Lê Thị Ngọc Tường.

Giản huy Hoàng đế đệ nhị Hoàng tử Lê Duy Chính.

Giản huy Hoàng đế đệ tam Hoàng tử Lê Duy Lương.

Thế Tông nghị Hoàng đế đệ nhị tần Vũ Thị Ngọc Quý (Kiến Xương phủ,Chân Định huyện, Nhân Hoàng xã)

Giản huy Hoàng đế tần Bùi Thị Ngọc Viên (Thường Tín phủ, Thượng Phúc huyện, Nhân Hiền xã).

Nhất công đức:

Thế Tông nghị Hoàng đế đệ nhị tần Lê Thị Ngọc Lam, hiệu Diệu Tông.

Nguyễn Bột (Chỉ huy sứ, thự vệ quân, nghĩa trạch hầu, Duy tinh xã), phu nhân Lê Thị Sâm.

Đỗ Yên - Điện tiền đô hiệu điểm ty, tả hiệu điểm, tham đốc, hiệu lực tứ vệ quân vụ sự, kiên nghĩa hầu, Duy Nhất(14) xã phu nhân Lê Thị Dương.

Nguyễn Điện An (Đô chỉ huy) phu nhân Dương Thị Khuyên.

Nguyễn Viết Trí (Đô chỉ huy sứ, Triều thiết hầu) phu nhân Ngô Thị Phấn, Hoàng Thị Hiến.

Hà Hữu Lược (Chỉ huy) phu nhân Lê Thị Thơm, Đỗ Thị Duyên; nam tử Hà Hữu Phúc, Hà Hữu Đức.

Vĩnh Tộ (15) vạn vạn niên chi cửu, quý xuân tiết, cốc nhật. Phụng chỉ truyền thư, Tả cấm vệ đoán sự, Tây lĩnh bá Lê Minh Phúc (Lam Sơn hương Quảng Thi xã).

Ất Mùi khoa Tiến sĩ xuất thân, Dực vận tán hiệp công thần, đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu Lễ bộ Thượng thư kiêm Hàn Lâm viện thị độc, Chưởng Hàn lâm viện sự, Đông các học sĩ. Thiếu Bảo Phương lan hầu, Từ Đông, Vân Điềm: Nguyễn Thực phác phủ soạn.

Am hiểu Ngọc thạch dịch cục, Cục phó Nguyễn Văn Minh, Cục phó Nguyễn Viết Đương tài lương Nguyễn Liễu (gia …huyện…bang…xã). Tuyên.

CHÚ THÍCH NỘI DUNG MẶT TRƯỚC

1 - Phượng Hoàng: Con chim trong thần thoạicủa người phương Đông, ngự trị trên tất cả các loài chim khác. Một linh vật trong tứ linh: Long, Ly, Quy, Phượng.

2 - Tam Bảo: Là ba thứ quý báu trong tự nhiên.

- Tam bảo của Phật giáo: Phật, Pháp, Tăng.

- Tam bảo của Trời là: Nhật, Nguyệt, Tinh. (Mặt trời, Mặt trăng, Sao)

- Tam bảo của Đất: Thủy, Hỏa, Phong. (Nước, Lửa, Gió)

- Tam bảo của Người là: Tinh, Khí, Thần.

Tinh là chất tinh túy của thể xác do máu huyết tạo ra. Nó tích tụ nơi cơ quan sinh dục và nhờ nó mà con người di truyền nòi giống.

Nơi người nam, Tinh là chất tinh trùng; nơi người nữ, Tinh là noãn bào được tạo thành trong buồng trứng.

Nhờ có Tinh mà con người có được sức khỏe và di truyền nòi giống. Cho nên, nếu con người dâm dục quá độ thì phải bị tổn Tinh, sức khỏe hao mòn, bệnh tật xảy đến.

Do đó, cái Tinh ấy được gọi là Chân Tinh.

Khí là chất hơi lưu thông theo máu huyết, tạo thành sức mạnh trong cơ thể con người, nên được gọi là Khí chất hay Khí lực. Đó là dưỡng khí trong hơi thở và các chất bổ dưỡng do thức ăn vào trong dạ dày biến hóa ra. Cho nên khi đói, thân xác bải hoải như không còn hơi sức nào hết.

Người mà ham mê danh vọng, phú quí vinh hoa thì phải tính toán trăm mưu ngàn chước, làm việc quá sức, hao mòn thân thể, khí lực suy yếu, tức là bị tản Khí.

Thần là trí não. Khôn ngoan sáng suốt hiểu biết của con người. Nó có được là do bộ óc, nên gọi là Trí óc hay Trí não.

Não bộ là của thể xác, nhưng sự hiểu biết là của chân thần. Não bộ được nuôi dưỡng đầy đủ khỏe mạnh thì sự thông minh hiểu biết tăng lên. Khi thể xác chết, bộ óc chết theo, nhưng cái trí hiểu biết vẫn không mất vì nó là của chân thần.

3 - Vĩnh Phúc. Địa danh xưa là đất Hoằng Hóa.

4 - Thuần Hựu: Địa danh xưa là Hậu Lộc.

5 - Đất Thang Mộc: vùng đất (thuộc sở hữu nhà nước hoặc thuộc đất công làng xã) do các vua chúa phong thưởng.

6 - Quỷ quì chi hám: Quỷ thiêng trước chùm hoa Quỳ. Hoa Quỳ là hoa Hướng dương. Ý nói quỷ có thiêng bao nhiêu vẫn sợ hoa hướng dương, vì hoa hướng dương là biểu hiện của mặt trời.

7 - Thế Tông Nghị Hoàng Đế: Tên húy là Lê Duy Đàm (1567-1599), con thứ năm của Lê Anh Tông, ở ngôi 27 năm (1573 – 1599), thọ 33 tuổi. Vua thứ tư nhà Hậu Lê thời Trung Hưng.

Theo Văn bia: Hoàng Thái Hậu Nguyễn Thị Minh Thụy là bà cố nội của vua Thế Tông Nghị Hoàng đế, như vậy bà là vợ vua Lê Trung Tông (1535 – 1556).

8 - Năm Hoằng Định thứ 15: Là năm Ất Mão 1615, thuộc thời vua Lê Kính Tông.

9 - Khởi công ngày 12 tháng 7: Như vậy các vị tiền nhân ngày trước không kiêng làm việc lớn trong tháng 7 như bây giờ.

10 - Cung Ly Lâu: Cung điện đẹp ở phía Nam trong cung.

11 – Công Thâu: Tên ông là Ban, người nước Lỗ Trung quốc. Người thầy vĩ đại về kiến trúc và nghề mộc. Hiện có thước Lỗ Ban dùng trong xây dựng

12 - Minh銘: Tên một thể văn cổ. Bài minh thường để tự răn mình, hoặc khắc chữ vào đồ vật, ghi chép công đức. Ngày xưa khắc vào chuông, đỉnh, bia. Trong bia ghi nhớ ơn vua và chúc quốc vận trường tồn.

13 - Duy Nhất xã:Tên làng Duy Tinh từ xưa vẫn không thay đổi, nhưng lại thêm tên Duy Nhất. Cụ Tuấn Trác ở Tinh Hoa, cho biết cụ là người xóm Duy Nhất, nhưng quê chính ở làng Nhuệ. Xóm Duy Nhấtxưa của làng, là một xóm nhỏ từ ngã tư phố Phủ đến cạnh Uỷ Ban xã hiện nay. Xóm dành cho người làng Nhuệ, làng Lam và làng Thái là quê hương bà Hoàng được ở. Làng Duy Tinh không quản lý hành chính xóm này. Dân Duy Nhất không được cấp ruộng công điền, nên mới có câu: “Duy Nhất có đinh nhưng không có điền”. Bà Hoàng Hậu đưa một số dân quê mình ra, cùng với làng Duy Tinh để quản lý bốn đình trong Chợ Phủ. Cụ Tuấn Trác cho biết năm 1945 xóm Duy Nhất có 21 hộ với 83 nhân khẩu. Ngày nay cộng đồng Duy Tinh - Duy Nhất đoàn kết chung tay góp sức xây dựng Làng cổ Duy Tinh!

14 - Giản huy Hoàng đế: Là Thụy hiệu của vua Lê Kính Tông (1599 – 1619)

15 - Vĩnh Tộ thứ chín: Niên hiệu vua Lê Thần Tông năm 1628

* Bản dịch:

BIA GHI VỀ VIỆC TRÙNG TU

CẦU VÀ CHỢ PHƯỢNG HOÀNG.

Đưa cầu và chợ Phủ (nguyên là chợ trâu) lên làm cầu và chợ Tam bảo. Khắc vào bia kèm bài minh

Sách xưa dạy rằng: Trên sông thì bắc cầu, chính là để giúp người dân qua lại; ban ngày họp chợ chính là để cho của cải vật dùng được trao đổi thông suốt.

Xét về cầu Phượng Hoàng và chợ của Phủ ta, ở vào giữa khoảng hai huyện Vĩnh Phúc và Thuần Hựu; nền đất cao ráo, bằng phẳng là nơi khách bốn phương qua lại, nơi của cải hàng hóa buôn bán trao đổi; thật đúng là nơi đến đã lớn, nơi về lại to; là nơi đại đô hội của đất Thang Mộc vậy!

Gần đây, do hội trời vận đất đổi thay, phong cảnh càng sai dời khác trước; người đời không thể không ngậm ngùi cảm động như chim én bay trước ruộng lúa mạch, như quỷ thiêng trước chùm hoa quỳ.

Kính nghĩ rằng:

Đức vua Thế Tông Nghị Hoàng đế có bà mẹ già Hoàng Hoàng Thái Hậu, là ngôi mẹ của dân nước; lấy lòng Phật làm lòng mình; nẩy lên lòng mở lượng to lớn giúp dân, vun trồng phúc lớn cho mai sau; rồi các quan lớn trong Triều cùng các vị thiện nam tín nữ hăng hái nhận đóng góp phí tổn. Tiền lương bạc túi, thanh thản đóng góp cho việc lợi ích chung; rồi hô một tiếng, gỗ súc đá tảng ngói gạch chở về kìn kìn, bốn phương dồn lại.

Đến năm Hoằng Định thứ 15, sớm ngày 12 tháng 7 bắt đầu đón thợ mộc, thợ nề; lấy cái tài hoa lỗi lạc của Ly Lâu để làm chuẩn mực, lấy tài khéo léo tay nghề của công Thâu Ban làm thước, rồi dựng lên nhấc lên chỉ chưa đầy một tuần mà Rồng đã thôi mưa, cầu vồng mống cụt đã ngang nhiên bắc lên trên dòng nước sóng bạc rồi vậy.

Thế là nước theo mạch đất mà chảy xuôi, người nhờ cầu mà qua lại, chợ Phủ ta mang tên thành chợ Tam Bảo. Chính là:

Người thiên hạ qua lại. Của thiên hạ tụ tập. Buôn bán hàng hóa ùn về. Việc mậu dịch dễ dàng. Mọi người hớn hở, dân chúng náo nhiệt ở ngay dưới trời vua đất chúa, vui vẻ ca hát ở đường cái rộng của vua; tụ tập được cái  gì là vô cực đến cái hữu cực (ít đến nhiều, cái thiếu đến đủ) Tất cả đều nhớ ơn cao sâu của đức Vua ta vạn vạn năm dài lâu.

Công lao thật là vô cùng to lớn, lớn lắm vậy!

Thế là việc làm cầu, việc xây dựng chợ, công đức tỏa đến, thấm đến vô lượng vô biên đó! Lấy cát sông Hằng mà đếm cũng không hết phúc lộc trên ban cho dân, ban cho thân mình, ban cho con cháu: dày dặn, to lớn, xa xôi, dài mãi cơ đồ vua ta vững bền ức vạn năm, vô biên vô cương, không sao tả xiết.

Minh rằng:

Làng Vua đất phúc

Phượng Hoàng tên cầu

Quy mô hùng lệ

Chế độ lớn lao

Mây bay cột vẽ

Mưa tạnh sáng sao

Rường cây phúc cả

Bàn điện kinh giao

Trừ bỏ gián cách

Chợ họp giữa ngày

Của cải trao đổi

Có không chuyển thay

Dựng nên Tam Bảo

Phúc xưa cao dày

Nhân dân đội đức

Giằng giặc tràn đầy

Phật đại hội chủ

Lúc này là:

Vua Thế Tông nghị Hoàng đế có bà cụ nội là minh phi lão Hoàng Hoàng Thái Hậu, tên là Nguyễn Thị Minh Thụy (phủ Thiệu Thiên, huyện Thụy Nguyên, hương Lam Sơn)

Giản huy Hoàng đế bà Hoàng Thái Hậu Trịnh Thị Ngọc Trinh

Công chúa thứ nhất tên là Lê Thị Ngọc Thơm là con vua Thế Tông nghị Hoàng đế.

Giản huy Hoàng đế công chúa thứ nhất tên là Lê Thị Ngọc Tường; Hoàng tử thứ hai là Lê Duy Chính, Hoàng tử thứ ba là Lê Duy Lương.

Bà tần thứ hai là Vũ Thị Ngọc Quý của vua Thế Tông nghị Hoàng đế (phủ Kiến Xương, huyện Chân Định Nhân hoàng xã)

Bà tần của giản huy Hoàng đế là Bùi Thị Ngọc (phủ Thường Tín, huyện Thượng Phúc, xã Nhân Hiền)

Ghi công đức góp công xây cầu dựng chợ.

Bà tần thứ hai của vua Thế Tông là Lê Thị Ngọc Lam hiệu Diệu Tông.

Nguyễn Bột chỉ huy sứ, nghĩa trạch hầu xã Duy Tinh vợ là Lê Thị Sâm.

Bà vợ ông Đỗ Yên là Lê Thị Đương (Kiến nghĩa hầu, xã Duy Nhất).

Bà vợ ông Nguyễn Diên An là Dương Thị Quyên

Bà Ngô Thị Phấn, Hoàng Thị Hiến vợ ông Nguyễn Viết Trí làm đô chỉ huy sứ triều thiết hầu.

Ông Hà Hữu Lược vợ là Lê Thị Thơm, Đỗ Thị Duyên, con trai là Hà Hữu Phúc, Hà Hữu Dực.

Năm Thứ chín của đời Vĩnh Tộ muôn muôn năm, tháng cuối xuân ngày tốt vâng chỉ nhà vua truyền cho viết bia là cẩm y vệ đoán sự tây lĩnh bá Lê Minh Phúc (hương Lam Sơn xã Quảng Thi)

Ất Mùi khoa tiến sĩ xuất thân, Dực vận Tán công thần, đặc tiền Kim tử vinh lộc đại phu, Lễ bộ Thượng thư kiêm Hàn Lâm viện thị độc, coi giữ công việc của viện Hàn Lâm, Đông các học sĩ thiếu bảo Phương Lan hầu, Từ Đông, Vân Điềm là Nguyễn Thực thác phủ soạn bài bia và minh này.

Người khắc chữ vào bia:

Cục phó coi về đá và ngọc Nguyễn Văn Minh.

Cục phó Nguyễn Viết Đương (Tài lương) Nguyễn Liễu (gia…huyện…bang xã)

Cụ Lê Văn Uông dịch năm 1995

Xem thêm