
LÀNG TÔI - Kỳ 6

5 * BÀ HOÀNG HẬU NGUYỄN THỊ MINH THỤY VỚI LÀNG DUY TINH
Thuần Hựu phủ, Thụy Nguyên là huyện Lê trung hưng, ghi chuyện rõ ràng Duy Tinh là đất bà Hoàng Nhuệ thôn quê quán, vẻ vang đất này
Húy Minh Thụy, Nguyễn đây là họ Thuở hàn vi, cắt cỏ chăn trâu Công dung ngôn hạnh là câu Nữ nhi hiền thục hàng đầu danh thơm
Sắc chẳng kém, mỹ nhân tứ đại Vua Trung Tông, truyền gọi vào cung Chánh phi - Hoàng Hậu, đóa hồng Vườn hoa Thượng uyển càng nồng dạ hương
Tâm khoáng đạt, tình thương Bồ tát Đức cao vời, dào dạt nghĩa nhân Một lòng vì nước vì dân Nhỏ to chẳng kể, tận tâm giúp đời
Cấp công điền, bốn mươi mẫu ruộng Làng Duy Tinh, được hưởng lâu dài Việc quân ưu ái cho người Xông pha trận mạc, thiệt thòi xa quê.
Bà Hoàng dạy thêm nghề vàng giấy Làng Duy Tinh, từ đấy quanh năm Tối ngày không hết việc làm Trẻ con, người lớn cầm “vàng” trong tay
Lúc kỵ lạp, khi ngày việc hiếu Cúng gia tiên, không thiếu “vàng” này Bốn trăm năm lẻ bề dày Duy Tinh nhờ cậy nghề này mưu sinh
Còn lưu dấu, chợ Đình mỗi sáng Người bán mua, đủ hạng hàng này Giấy moi, giấy cạnh đủ đầy Giây gon, hồ dán trao tay nhận hàng
Từ con trẻ, cuốn vàng chăm chỉ Đến cụ già, nứa chẻ chặt nan Ai ai cũng biết tém vàng Nhẹ nhàng công việc, an nhàn thảnh thơi
Đâu chỉ thế, sáng ngời còn đó Việc bà làm, rạng rỡ nghĩa nhân Bắc cầu, xây chợ cho dân Trung tâm Phủ Huyện, thêm phần khang trang
Phủ Thuần Hựu, muốn sang Vĩnh Phúc (Tên Hoằng Hóa xưa) Qua Trà Giang nhiều lúc gian nan Chẳng may lỡ chuyến đò ngang Công việc chậm trễ thời gian lỡ làng
Tâm thánh Phật, bà Hoàng mở lượng Thương dân lành, muôn trượng non cao Phùng thiện tích đức dồi dào Vun trồng quả Phúc muôn đời dài lâu
Quan trong Triều, cùng nhau đóng góp Bá hộ giàu, tiền thóc xung công Thiện nam tín nữ một lòng Xây cầu dựng chợ, tâm đồng việc chung
Hô một tiếng, bốn phương dồn tới Đã đủ đầy, gạch ngói ngổn ngang Gỗ súc, đá tảng hàng hàng Chất cao như núi, sẵn sàng thi công
Tìm thợ khéo, dốc lòng chăm chỉ Học điều hay, trăm vẻ Ly lâu Mực sào thước tấc Công Thâu Chọn ngày Hoàng Đạo nhiệm mầu khai trương
Ấy là năm, mười lăm Hoằng Định (1615) Thuận mọi điều, phong vận hanh thông Mười hai tháng Bảy khởi công Rộn ràng hồ hởi, tưng bừng vui thay
Dòng Trà giang, bến này tấp nập Đá núi Nhồi, cấp tập chuyển lên Chen nhau thuyền lại nối thuyền Ra vào cặp bến triền miên đêm ngày
Chạm hoa văn, khéo tay thợ đá Uốn lượn mềm, đẹp quá đường vân Suốt ngày mải miết chuyên cần Đá xanh mượt bóng, muôn phần đẹp sao!
Thợ hụp lặn, sông sâu chẳng sợ Mặc triều dâng, nào xá kể chi Hàng hàng trụ đá chắc kê Vững vàng sừng sững liền kề sóng đôi
Từng phiến đá, nối dài san sát Hai đầu cầu, đá lát phẳng phiu Rõ ràng cầu đá đẹp sao Mười ngày hoàn tất biết bao công trình
Dáng cầu vồng, lung linh bảy sắc Soi bóng hình, nước bạc Trà Giang Đặt tên cầu đá Phượng Hoàng Xa xôi xích lại, muôn phương thêm gần
Cùng một lúc, đồng tâm hiệp lực Một công trình, dốc sức dựng xây Trùng tu chợ của phủ này Khang trang rộng rãi mỗi ngày đẹp hơn
Vốn trước đây, từng còn tên gọi Chợ trâu bò, mong đợi đến phiên Về đây tứ xứ mọi miền Hàng đầu cơ nghiệp, bỏ tiền tậu trâu
Chợ mới nay, chỉ đâu có thế Người bán mua, hàng hóa đủ đầy Bắc vào, Nghệ tới hàng ngày Dưới thuyền trên bến liền ngay chợ kề
Hàng hóa sẵn, chở về không thiếu Gốm lò Chum và chiếu Nga Sơn Lụa là vải vóc tỉnh Nam Cá tôm Diêm Phố, Ba Làng - Tĩnh Gia
Sát bờ sông, hàng bè luồng nứa Gỗ dổi lim, Đầm Mía xuôi về Dẫy dài bè lại nối bè Chợ đông tấp nập, trăm nghề bán buôn
Năm buổi chính, chợ phiên một tháng Khi chiều về, chạng vạng chợ Hôm Mẹ ngồi úp mẹt đợi con Đang chạy cá dổi, mỏi mòn đôi chân
Bà Hoàng xây, quán hàng đủ hết Cả bốn đình, Nam - Bắc - Tây - Đông Đình thờ phủ huyện hàng năm Tế thần đảo vũ, cầu mong được mùa
Tên Tam Bảo, chợ xưa lưu lại Thiên - Địa - Nhân, mãi mãi lưu truyền Chốn này quần tụ khí thiêng Khắc vào bia đá Phượng Hoàng còn đây
Công trời biển, ơn này nhớ mãi Lập đền thờ, Phong Ngãi ngoài Lăng Mười hai, nhị nguyệt hàng năm Là ngày chính kỵ, hằng tâm cúng bà
Làng Duy Tinh, thủ từ hương khói Bốn trăm năm, không buổi nào quên Từ ngày cách mạng bốn lăm Không ai chăm sóc, lâu dần quên luôn
Ở bên cạnh, xóm Đền tên gọi Ba trăm năm, thay đổi nhiều tên Dong cờ hợp tác, tiến lên Tan hoang phá sạch, đâu còn đền xưa
Thật tiện lợi, đền vừa sẵn có Bài vị vua, củi đó tiện sao Cho vào lò mía đốt thôi Tan thành mây khói, một thời vua quan
Hạ bia đá, đem làm bàn giặt Mấy mươi năm, quăng quật thảm thê Vỡ trán, sứt cạnh, chữ mờ Chẳng ai biết được bia ghi thế nào
Trời có mắt, trên cao nhìn thấy Cụ Bạ Thòa, trước đấy lo toan Tháng ngày cặm cụi chu toàn Ghi lại đầy đủ, tỏ tường nội dung
Ta mới biết, bà hoàng Minh Thụy Bao công lao, để lại đất này Tâm nhang xin được giãi bầy Ghi ơn cụ bạ, bia nay tỏ tường
Bốn trăm năm, rõ ràng như thế Đến bây giờ, sao nỡ lãng quên Đền thờ phá sạch tan hoang Kỵ bà chẳng nhớ, khói hương lạnh lùng
Chẳng lẽ quên, cội nguồn đạo lý Ăn quả ngon, nhớ kẻ ươm trồng Sai thì phải sửa, nếu không Tội đồ Lịch Sử, đau lòng nguôi sao?
Nguyễn Quý Phong