TẢN MẠN CÂY CAU

Sáng dậy nhìn thấy cây cau trước cổng có một tàu lá héo vàng sắp rụng. Mới đó mà đã chín năm, từ khi trồng đến nay đã ba mùa có quả. Buồng cau bói lần đầu được mười tám quả, bà nhà tôi hái thắp hương cúng gia tiên và biếu mấy nhà hàng xóm nhân mồng một đầu tháng. Tháng trước có một buồng khá sai quả, sáng ra nhìn những quả cau xanh mượt thật thích; buổi trưa không còn nữa, bà hàng xóm nói khi nãy cậu ship hàng đi qua, dừng xe bứt đấy! Dạo này quả cau tươi có giá, nên cau bị hái trộm khá nhiều. Trung quốc mua quả cau về làm kẹo với giá rẻ, lại xuất sang ta giá tăng hàng chục lần…
Khi ta trồng cây quanh nhà phải nhớ câu: “Trước cau - sau Chuối” là nói về vẻ đẹp cảnh quan và phong thuỷ đấy. Cau là cây lưu niên thân cao, tán lá hẹp không chắn nắng gió. Nhà đầy nắng và gió trời làm ta khoan khoái… Sân phơi lúa ngày mùa không bị che nắng. Vẫn nhớ lúa phơi trên sân phải thường xuyên “đi lúa” cho lúa khô đều, “đi lúa” là hai chân không bước mà bàn chân đẩy dủn lúa thành những luống nhỏ; lần trước đi dọc lần sau đi ngang… được nắng lúa mau khô dòn.
Có câu “miếng trầu đầu câu chuyện”, liệu có phải từ sự tích “Trầu Cau” nói về nghĩa tình gắn bó keo sơn của hai anh em Tân và Lang đời vua Hùng vương xưa, nên trầu cau không thể thiếu ở sính lễ trong mọi đám cưới của người Việt Nam ta.
Thuở trước cả làng Duy Tinh đều là nhà tranh vách đất, những ngày mưa dầm tháng Tám, nước mưa từ mái tranh chảy xuống mầu nâu đậm và khét nồng không dùng được. Chỉ có cách duy nhất là buộc tàu cau vào thân cây cau, phần mo dưới đặt vào miệng chum; những tầu lá trên ngọn hứng nước mưa theo thân cây xuống tầu cau buộc sẵn chảy vào chum. Sau một trận mưa rào là có chum nước mưa trong vắt. Sau này làng tôi có nhiều nhà ngói, mọi nhà đều hứng nước mưa. Người ta xây “bể cạn” tới bốn năm khối, lấy nước mưa dùng quanh năm. Chẻ đôi thân cau nạo ruột đi làm máng hứng nước mưa, bền hơn dùng máng luồng. Bây giờ người ta gò tôn làm máng hứng nước mưa. Thân cau cứng và bền, ngày trước mấy bác phó cối làng Chợ Phủ - Duy Tinh dùng làm dăm để đóng cối xay lúa. Cối xay dùng ba bốn năm vẫn tốt, dăm xay đen bóng, lúa xay chín đều không sống, không nát gẫy.

Thưở ấy bọn trẻ con chúng tôi buổi tối thường kéo nhau lên đầu làng, chia phe đánh trận giả, rồi cùng nhau ăn khoai lang khô, ngô rang, lạc sống… quá nửa đêm mới về, lấy gáo dừa vục vào chum nước mưa, “ực” một hơi cho đã khát; rồi trải chiếu nằm phơi bụng giữa hè ngủ, con muỗi nào đốt thì “phành phạch” đập quạt mo rồi một mạch ngủ tới sáng…
Mo cau làm nhiều thứ dùng hàng ngày, trước đây nhà nào cũng có vài chiếc quạt mo, là vật dụng cần và quý, đến mức “Phú ông đòi đổi ba bò chín trâu” mà thằng Bờm vẫn không chịu. Mo cau cắt nhỏ bằng bàn tay làm cái vét bột nhanh và sạch lắm. Nghề làm vàng mã làng Duy Tinh xưa phải có bột làm hồ dán vàng, nhà tôi có cái cối xay bột, quanh năm làm bột bán cho các nhà làm vàng; tết đến thì xay bột nếp, họ mua về làm các loại bánh, nên không thể thiếu cái vét bột mo cau. Mấy bà làng Lam xuống làng Duy Tinh bán cáy, cũng dùng mo cau vẹt cáy vào bát cho người mua.
Mo cau còn dùng làm cái gàu để múc nước giếng, gàu bằng mo cau rất khó múc nước. Khi dong gàu xuống mặt nước, gàu cứ nằm ngang, phải nhắp đi nhắp lại nhiều lần cho gàu nghiêng, nước vào ít một mãi mới đầy gàu mo cau!
Mo cau tước phần bẹ, chỉ lấy phần ruột bên trong dùng để nắm cơm. Cơm nắm bằng mo cau ngon tuyệt cú mèo! Xới cơm ra mo cau, gấp hai bên lại rồi nhồi lui nhồi tới, hết nhồi dọc lại nhồi ngang cơm nắm dẻo mịn lắm. Cơm nắm mo cau để lâu không thiu vì mo thoát hơi nước và giữ độ ẩm lâu.
Không quên một thời bọn “trẻ trâu” chúng tôi thường phải đi cắt bổi trên núi ở Châu Lộc về làm củi nấu. Gà gáy canh ba đã í ới gọi nhau, hành trang không thể thiếu mo cơm mẹ buộc ở đầu đòn càn. Lên tới đền Bà Triệu thì trời sáng, vượt đường Một rồi qua đò Phong Mục đi vài cây số nữa là đến những dãy núi có cây bổi mọc bạt ngàn. Cây bổi cứng, nhiều cành nhỏ như que hương mầu nâu đậm dài gần một mét; lá mọc từ gốc lên tới ngọn gồm nhiều lá nhỏ tua tủa ra hai bên. Chúng tôi tay trái vơ từng cụm, tay phải dùng liềm cắt sát gốc, tay đứa nào cũng chảy máu vì cành bổi bị cắt sắc nhọn lắm. Bổi cắt từng cụm xếp đống, đứa nọ giúp đứa kia buộc bổi lại thành bó lớn. Mỗi bó rộng chừng bẩy, tám mươi phân, cao hơn một mét trông khá to. Dùng đòn càn xóc vào giữa bó rồi hất lên vai, đầu đòn càn còn lại xóc tiếp vào bó thứ hai. Thế là hoàn thành một gánh bổi, nhìn khá to nhưng không nặng lắm khoảng trên dưới hai mươi cân. Tất cả hò nhau gánh bổi hạ sơn, xuống khe rửa ráy xong là vào bữa. Mo cau cơm nắm mở ra, mỗi đứa một kiểu; phần lớn là cơm độn khoai, độn ngô. Nhưng nắm cơm nào cũng chắc mịn, lấy dao con cắt từng lát trông như như lát dò hoa. Thức ăn là muối vừng, muối lạc, tép rang… lại có cả cá trích kho của đứa có người nhà buôn cá biển. Tuy mệt nhưng đang lúc đói ăn tới đâu biết tới đó. Ngon ơi là ngon, dư vị của những bữa ăn ấy vẫn lưu lại mãi đến bây giờ ! Ăn xong xuống khe hai bàn tay khum lại vục nước uống. Rồi lên đường về đến chợ Sơn là trạm nghỉ, vào dân xin nước uống lại đi tiếp. Khoảng xế chiều về nhà, ngồi thở bở hơi tai. Ngày ấy chỉ chân đất thôi làm gì có dép, ấy thế mà bước trên đường đá dăm, vào rừng trơn trượt dẫm trên cành khô gai góc vẫn không sao. Tối về hai bàn chân chùi lên chổi rơm, rồi “ba xoa hai đập” là lên giường ngủ!
Hiện nay công nghệ phát triển cao, mo cau còn là nguyên liệu để sản xuất các vật dụng sinh hoạt hàng ngày như: Bát, đĩa, môi, thìa, khay, ống hút… là sản phẩm độc đáo, thân thiện với môi trường. Mo cau dễ phân huỷ, không gây hại cho môi trường, góp phần giảm thiểu rác thải trong nông nghiệp. Đã có nhiều công ty xí nghiệp sản xuất các sản phẩm mo cau, xuất khẩu được nhiều nước chấp nhận; giải quyết việc làm và đem lại nguồn thu nhập cho nông dân.

Cây cau gắn bó với chúng ta hàng ngàn năm nay, là người bạn gần gũi thân thiết không thể thiếu trong cuộc sống. Làng quê ta đều trồng cau, cau trồng bờ ao, trồng trước nhà; có khi trồng cả vườn. Nhiều vùng trồng cau nổi tiếng, làng Cao Nhân là một làng nghề trồng cau truyền thống lâu đời của huyện Thủy Nguyên Hải Phòng; là vựa cau nổi tiếng của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Về thăm làng Cao Nhân vào mùa thu hoạch, ta được chứng kiến những cô bé, cậu bé thoăn thoắt leo cau chẳng kém gì “chú mèo mà trèo cây cau”. Bắt đầu trèo lên ở cây cau đầu vườn, hái xong thả cau xuống; nhún đu người cho nghiêng cây, rồi vòng tay truyền sang cây bên cạnh. Cứ như vậy từ cây nọ sang cây kia, từ đầu vườn đến cuối vườn, không phải lên xuống nhiều lần!
Cây cau còn là hình tượng nghệ thuật đẹp nói về tình yêu đôi lứa trong Ca dao, Tục ngữ, trong Văn học, Âm nhạc, Thơ ca và Hội hoạ…
Đọc hai câu thơ:
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi
Ai cũng nhận ra là của Hồ Xuân Hương trong bài “Mời trầu”. Nếu như bà chúa thơ Nôm chẳng ngại ngần bầy tỏ nỗi khát khao, bạo liệt về tình yêu của mình; thì chàng trai “tương tư” cô láng giềng của Nguyễn Bính lại e ấp, ngại ngần của một cậu bé mới lớn, phải nhờ đến hàng cau Liên Phòng và thôn Đông, thôn Đoài để giãi bầy nỗi nhớ nhung quay quắt, khôn nguôi của mình với cô gái chân quê thầm yêu trộm nhớ:
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau Liên Phòng.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Cau Liên Phòng là cau gì vậy? Liên Phòng là tên một loại cau, còn gọi là cau Truyền Bẹ - cau tứ quý; một giống cau ra quả quanh năm, có tuổi thọ cao đến 70 năm vẫn cho quả.
Chúng ta ai cũng hơn một lần nghe Chế Linh hát bài “ Người phu kéo xe cau”, bài Bolero nổi tiếng của ông hoàng nhạc sến Vinh Sử. Bài hát đốn tim bao thế hệ, gợi nhớ về kỷ niệm xưa của một thời con trẻ: “Trò chơi thưở bé, anh phu kéo mo cau, chở em quanh ngõ vườn… Hỏi ai… ai còn nhớ.. tên phu kéo mo cau. Naу đã hết rồi, tuổi thơ tìm đâu…” .
Không nhiều nước phải gồng mình lên đánh giặc ngoại xâm như Việt Nam ta. Những cuộc chiến ấy, có rất nhiều bi kịch cho biết bao lứa đôi. Đau thương mất mát đã hoá “đá vọng phu” vẫn không thấy chồng về. Nửa cuối thế kỷ trước, chưa đầy bốn mươi năm chúng ta đã phải qua ba cuộc chiến chống Pháp, chống Mỹ và chống Tàu vô cùng ác liệt… Hàng triệu thanh niên lên đường vào chiến trận, vẫn biết quê nhà những người vợ, người yêu đang ngày đêm mong đợi họ trở lại… Nhưng với tinh thần hy sinh tất cả, không chịu mất nước, họ dứt áo ra đi không hẹn ngày về… “Hoa cau vườn trầu” của nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Tiến qua giọng hát Trung Đức và Thu Hiền đã làm thổn thức nỗi lòng không những của bao nhiêu anh lính trong chiến trường, mà còn làm rung động trái tim của của thế hệ trẻ hôm nay… “Nhà anh có một vườn cau. Nhà em có một vườn trầu. Chiều chiều, nhìn sang bên ấy. Hoa cau bên này, rụng trắng sân nhà em…Anh thương em rồi sao anh không nói, để hoa cau, rụng trắng đêm trăng buồn!. Bài hát mang âm hưởng nhạc dân gian Bắc bộ, đậm hương vị thôn quê, gần gũi, thân thiết, thấm đẫm tình người… sẽ còn sống mãi.
“Hoa cau bên này, rụng trắng sân nhà em”! Hoa cau đâu chỉ có mầu trắng, còn có một đặc trưng riêng biệt là mùi hương. Ở phố thị về quê vào độ mùa cau trổ hoa, ta sẽ được thưởng lãm mùi hương hoa cau không sao quên được… Nhất là những đêm trăng, ngồi trước hiên nhà, hoa cau trước sân toả hương thơm ngát, thoang thoảng, nhẹ nhàng tinh khiết, man mác vây bọc quanh ta; từng phút từng giây hương cau như đặc quánh lại. Hãy ngồi yên để hương cau len vào từng đường gân thớ thịt, ta được tận hưởng hương quê, nơi tuổi thơ ta một thời ắp đầy bao kỷ niệm… Hương hoa cau sẽ cuốn ta chấp chới bay lên vào miền cổ tích.
Cây cau mãi là người bạn gần gũi thân thiết không thể thiếu của Việt Nam ta.
Nguyễn Quý Phong