NGƯỜI LÍNH GIÀ LÀNG TÔI

NGƯỜI LÍNH GIÀ LÀNG TÔI

Cụ Nguyễn Côn năm nay 90 tuổi đời, 71 năm tuổi Đảng…cụ vẫn khoẻ mạnh …đặc biệt là tinh thần rất minh mẫn và sáng suốt. Cụ nhớ rõ từng sự việc trong quãng đời tham gia hoạt động cách mạng của mình.

Năm 1943 sau khi học xong sơ học yếu lược (Primaire Élémentaire) của Trường Pháp – Việt huyện, cụ tham gia hoạt động cách mạng cùng với ông Nguyễn Văn Thưởng, Nguyễn Văn Cảnh và bà Bùi Thị Tước. Tháng Tám năm 1945 cụ tham gia trong đoàn quân đánh chiếm huyện đường Hậu Lộc, cướp chính quyền về tay nhân dân. Cụ được ông Lưu Minh Châu, cán bộ của Đảng đưa vào hoạt động trong phong trào Thanh Niên cứu quốc và được kết nạp Đảng ngày 06 tháng 10 năm 1947, khi vừa sang tuổi 18. Năm 1949 cụ vào quân đội và được cử đi học Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn khoá 5. Ra trường năm 1949, cụ về sư đoàn 320 tham gia chiến đấu ở khu vực đồng bằng Bắc bộ.
Khi quân Pháp thất bại ở chiến dịch Hòa Bình năm 1952, chúng mở 21 trận càn quét lớn ở đồng bằng Bắc bộ. Lớn nhất là trận càn “Mec-quya” (Mercure) ở Thái Bình, nhằm đẩy lùi sư đoàn 320 ra khỏi vùng này. Lúc này cụ là Trung đội trưởng của tiểu đoàn Kiên Trung, Trung đoàn 48, Sư đoàn 320; cùng bộ đội địa phương và du kích chiến đấu, làm chậm bước tiến của địch từ Cầu Nghìn sông Hoá tràn qua Thụy Anh vào Thái Ninh. Cụ bị địch bắt ngày mồng 6 tháng 4 năm 1952.
Hơn 2 năm bị giam giữ, qua 4 nhà tù: Hoả Lò, Hải Phòng, đảo Phú Quốc và Hành Thông Tây ở ngoại ô Sài Gòn. Cụ vẫn giữ vững khí tiết của anh bộ đội cụ Hồ, tham gia sinh Đảng trong nhà tù. Khi hiệp định Giơ-ne-vơ (Genève) được ký kết, buộc Pháp phải trao trả tù binh. Cụ được trao trả ngày 29 tháng 8 năm 1954, tại Sầm Sơn Thanh Hoá.
Về địa phương, cụ là một dân thường, không tránh khỏi sự nghi hoặc của tổ chức và một số người. Trận đói cuối năm 1954 kéo dài sang năm 1955, cả tỉnh, cả huyện, cả làng đói rã họng. Tiếp đến CCRĐ như một trận bão đánh bồi lại đánh nhồi thêm, làm cho làng Duy Tinh thêm xơ xác…
Phải kiếm sống để tồn tại, cụ đi cày thuê cuốc mướn, làm mọi việc nặng nhọc…đế sống qua ngày. Gần ba năm trời dài đằng đẵng, trong nỗi mong chờ tổ chức xác minh. Mãi đến ngày 14 tháng 5 năm 1957, tỉnh uỷ Thanh Hoá mới có quyết định phục hồi đảng tịch cho cụ.
Sau khi phục hồi đảng tịch, cụ tham gia hoạt động ở xã, rồi được điều động về huyện công tác… đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng. Là uỷ viên Thường vụ huyện uỷ, Trưởng Ban Tuyên giáo, rồi Trưởng phòng Giáo dục…Năm 1990 cụ nghỉ hưu. Về địa phương, cụ được đảng bộ xã Văn Lộc tín nhiệm bầu vào BCH, giữ chức Bí thư đảng uỷ xã…
Với tinh thần anh bộ đội cụ Hồ: “Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành…” Bằng chứng là, cụ được khen thưởng nhiều Huân huy chương cao quý của Đảng và Nhà nước trao tặng.
Năm 2017 huyện uỷ Hậu Lộc trao huy hiệu 70 năm tuổi đảng, của BCH Trung ương Đảng CSVN tặng. Cụ là người duy nhất của huyện Hậu Lộc nhận huy hiệu 70 năm tuổi đảng trong dịp này.

Được cụ tiếp trong buổi chiều mùa đông. Nhìn khuôn mặt rắn rỏi, ánh mắt sáng luôn cười, tôi biết cụ là người có nghị lực kiên cường, vượt qua bao bão tố cuộc đời, để hưởng trọn niềm vui viên mãn của tuổi già. Chỉ vào hai bức phù điêu Bác Hồ và đại tướng Võ Nguyên Giáp trên bàn, cụ dõng dạc nói:
– Mình là anh bộ đội cụ Hồ, là lính của người anh cả Võ đại tướng…Đó là hai tấm gương soi cho mình noi theo!
Tôi biết cụ là anh “bộ đội cụ Hồ” thứ thiệt. Năm 1952 đã là Trung đội trưởng của sư đoàn 320. Đồng đội cùng trang lứa ở Trường lục quân Trần Quốc Tuấn ngày nào, kẻ còn người mất. Nhiều người là cấp tướng đảm trách các cương vị quan trọng của Đảng và nhà nước.
Cụ luôn có trách nhiệm với quê hương làng Duy Tinh. Khi cụ làm Trưởng Ban Tuyên giáo huyện Hậu Lộc, một lần về công tác ở cửa hàng Bách Hoá huyện, cụ thấy tấm bia Con Rùa của làng, cửa hàng đem làm bàn giặt…Cụ có ý kiến với Huyện và kiên quyết đưa tấm bia về cho làng Duy Tinh. Năm 1992 khi làm Bí Thư Đảng uỷ xã Văn Lộc, cụ phát hiện cây đa Thổ Thàng có nguy cơ bị mất, khi những người làm ruộng định cuốc hết đất ở gốc đa. Cụ bắt dừng ngay, nên cây đa cổ duy nhất của làng còn giữ được đến nay.
Với tôi cụ là người lính già, và hơn thế còn là một vị tướng cho lớp trẻ noi theo!
Tôi xin phép cụ chụp một tấm ảnh lưu niệm, cụ bảo:
– Mình có nhiều áo com lê con nó cho, nhưng mình vẫn thích mặc áo lính và đeo tấm huy hiệu kỷ niệm 40 năm Nhà tù đảo Phú Quốc, để nhớ về một thời không thể nào quên.
04-12-2018

Nguyễn Quý Phong

 


 

 

 

Xem thêm

Nội dung mặt trước bia Trùng tu Phượng Hoàng thị kiều bi

Nội dung mặt trước bia Trùng tu Phượng Hoàng thị kiều bi

* Nguyên văn chữ Hán : 重修鳳凰市橋碑 重修鳳凰橋施本府市牛市為三寶碑銘 常謂水上爲梁所以度行人之來往日中爲市所以通天下之貨財惟此鳳凰橋本府市介在永福淳祐之間土高爽塏地廣坦平行客之所往来貨財之所貿易真湯沐邑中大去大来大都會處也迩因星霜屡阕風景頓殊時人不能無燕麥鬼葵之感。 恭惟 世宗毅皇帝老皇皇太后以天下母爲佛中聖心福地目慈天發無量之心種將来之福當時達官及諸善信人咸願爲之助費閨錢腰帯怡然壹舍荆木昆瓦駢然四来廼於。 弘定拾五年柒月拾弍日旦伐蠲恊穀徠起鳩工離娄之明以督其绳公輸之巧以削其墨經之营之不浹旬而未雨之龍止齎之虹已橫跨於波上矣水由地中行人從橋上達原本府市玆施三寳致天下之人聚天下之貨商賈之居行共便貨財之貿易皆通举欣欣然誾誾然於帝日帝天之下咸熙熙焉皡皡焉於王途王路之中會其有極歸于有極普荷吾。 帝王萬萬年建極錫福之功大矣是則斯橋之作斯市之施其及人之功之德顧可量耶以此河沙慶善于祿百福于其身于其子孫穆穆皇皇绵绵延延祚胤处处基圖鞏固其億萬年無彊之休乎。 銘曰: 帝鄉福地,鳳凰橋名,規摸雄麗,制度恢宏,雲飛畫棟,雨捲惟亮,棟扶圖祚,磐奠瑤京,義取噬嗑,市会日中

By Quý Phong