11 phút đọc

NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ PHONG THỦY KHI LÀM NHÀ - Phần Thứ Năm

NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ PHONG THỦY KHI LÀM NHÀ - Phần Thứ Năm

 
NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ PHONG THỦY

KHI LÀM NHÀ – Phần Thứ Năm

CHƯƠNG III
CHỌN TUỔI LÀM NHÀ

Làm nhà là một việc đại sự trong đời người. Nhất là khi ta đã xây tổ ấm, cần có một cuộc sống tự lập, được tự do trong ngôi nhà của riêng mình. Xem thế đủ thấy, hầu như ai cũng phải lo chuyện làm nhà.
Cái nhà, xét về phương diện giá trị sử dụng, nó là chỗ ở, cho ta ấm áp về mùa đông, mát mẻ khi hè về; để hai trái tim vàng của Hạnh phúc lứa đôi thêm nồng nàn, đơm hoa kết trái với những thiên thần nhỏ, mang lại niềm vui bất tận trong tổ ấm gia đình.
Cái nhà còn là nơi ta trú ngụ, để tránh những phong ba của thiên nhiên và bão tố của cuộc đời luôn rình dập, có thể ập xuống bất cứ lúc nào…Nhưng hơn thế, có được cái nhà rồi; ta sẽ yên tâm “vững bước mà đi” trên con đường sự nghiệp. Chẳng thế mà từ lâu cha ông ta rất coi trọng việc làm nhà, coi cái nhà là một trong những yếu tố có thể mang đến Đại Cát hay Họa Hại cho chủ nhân.
Bởi vậy, khi làm nhà không ai bỏ qua việc chọn tuổi, lấy hướng, xem ngày, chọn giờ…để tiến hành các việc động thổ, dựng nhà, đặt đòn nóc, đổ mái, đặt bàn thờ, về nhà mới… Thực tế, chúng ta cũng thường thấy nhiều người gặp vận xấu, hao tài tốn của, tổn thất con người khi chuyển nhà hoặc xây nhà mới. Nhưng cũng có nhiều người phát danh tài lộc khi đổi nhà hoặc xây nhà mới.
Đây là một việc nhạy cảm, người cho đó là mê tín dị đoan; người lại bảo “có kiêng có lành”. Điều này còn tiếp tục làm hao tâm tổn trí của bao lớp người, qua bao thế hệ; tốn không ít giấy mực, được ghi lại thành văn trong các bách khoa tri thức và vẫn không có hồi kết.
Thực ra cũng chỉ là một phép giải Tâm Lý, giúp người ta thực sự yên tâm khi làm các việc lớn. Một khi tư tưởng thanh thoát, ta sẽ sáng suốt trong tư duy, quyết đoán chính xác trong hành động, ngôn ngữ mạch lạc, thuyết phục trong giao tiếp…thành công trong sự nghiệp là điều có thể đạt được.
Trên góc độ ấy, khi làm nhà ta cẩn trọng trong các việc: chọn tuổi, lấy hướng, xem ngày, chọn giờ không nên bỏ qua!
Chọn tuổi làm nhà phải tránh các năm sau đây:

I. TRÁNH NĂM PHẠM KIM LÂU
Từ xưa vẫn truyền lại câu:
Một (1) Ba (3) Sáu (6) Tám (8) Kim Lâu
Làm nhà, cưới vợ, tậu trâu thì đừng!
Việc tính tuổi Kim Lâu là dựa vào tám quẻ và Cửu cung trong Kinh Dịch rất phức tạp. Sách cổ ghi: “Ngũ thập nhập trung cung. 1, 3, 6, 8 phạm Kim lâu”. Có nhiều cách tính, đều cho kết quả 1.3.6.8 phạm Kim Lâu.
Cách đơn giản dễ làm nhất là:
Lấy tuổi mụ chia cho 9. Số dư còn lại rơi vào các số: 1,3,6,8 đó là các năm phạm Kim Lâu.
(Ghi chú: Tuổi mụ là tuổi dương lịch cộng thêm 1)
Một số ví dụ:
– Người sinh năm 1984, năm 2011 tuổi mụ là 28. Lấy 28 chia cho 9 còn dư 1. Vậy năm 2011 người ấy phạm Kim Lâu, không làm nhà được.
– Người sinh năm 1982, năm 2011 tuổi mụ là 30. Lấy 30 chia cho 9 còn dư 3. Vậy năm 2011 người ấy phạm Kim Lâu, không làm nhà được.
– Người sinh năm 1979, năm 2011 tuổi mụ là 33. Lấy 33 chia cho 9 còn dư 6. Vậy năm 2011 người ấy phạm Kim Lâu, không làm nhà được.
– Người sinh năm 1977, năm 2011 tuổi mụ là 35. Lấy 35 chia cho 9 còn dư 8. Vậy năm 2011 người ấy phạm Kim Lâu, không làm nhà được.
Vẫn có người nhầm các số 1,3,6,8 là các số sau của mỗi tuổi như 21, 23, 26, 28 là tuổi Kim Lâu, như vậy là không đúng cần điều chỉnh lại.
Hạn Kim Lâu, bị cho là rất nguy hiểm, nếu mua hoặc xây nhà sẽ có tai họa hoặc chết chóc cho mọi người trong nhà. Theo cách tính trên nếu:
Số dư là 1: năm đó phạm Kim lâu thân, làm nhà sẽ có tai họa cho chính gia chủ.
Số dư là 3: năm đó phạm Kim lâu thê, làm nhà sẽ có tai họa xảy ra cho vợ.
Số dư là 6: năm phạm Kim lâu tử, làm nhà sẽ có tai họa cho con cái.
Số dư là 8: năm đó phạm Kim lâu lục súc, chủ tai họa cho chăn nuôi, hay công việc làm ăn thất bại.
Quan niệm trên cho thấy phạm Kim Lâu nào cũng cần phải tránh.
Ngày trước có câu: “Lấy vợ xem tuổi đàn bà, làm nhà xem tuổi đàn ông”. Liệu có phải bây giờ vẫn như thế không? Xét trên quan điểm Lịch sử để lý giải việc này. Trước cách mạng Tháng Tám, đạo Nho là hệ tư tưởng của xã hội phong kiến. Tư tưởng trọng nam khinh nữ rất nặng nề. Người đàn ông luôn được đặt ở vị trí chủ chốt, đảm trách mọi việc trong gia đình. Làm nhà là một việc lớn, phải chuẩn bị “tam niên tích cốc, ngũ niên tích mộc 三年积谷五年积木”! do đó “làm nhà xem tuổi đàn ông” lúc bấy giờ là đương nhiên.
Đạo lý Nho học trọng nam khinh nữ, là một sai lầm của Khổng phu tử. Trong trường kỳ lịch sử hàng ngàn năm, giai cấp phong kiến Trung quốc và các nước châu Á, đã lợi dụng Nho giáo làm nền tảng tư tưởng để thống trị. Hậu quả là: ngoài xã hội thì quân chủ chuyên chế; trong nhà thì gia trưởng. Không có dân chủ, người dân cam chịu kiếp nô lệ. Trong đó người phụ nữ chịu thiệt thòi hơn cả.
Trước khi Khổng phu tử ra đời, thuyết Âm Dương đã xác định, mọi yếu tố trong tự nhiên và xã hội đều có hai mặt đối lập, nhưng luôn cân bằng cùng tồn tại: ngày đêm, sáng tối, to nhỏ, ngắn dài, tốt xấu, nam nữ…Nó phát triển theo quy luật sinh khắc, để tạo nên sự cân bằng trong vũ trụ nhân gian.
Nam (Dương) Nữ (Âm) là hai thực thể cân bằng trong vòng tròn Thái cực. Nam và Nữ cũng đều ứng với một quẻ trong Kinh Dịch. Xét trên góc độ này, đương nhiên vị trí người phụ nữ bình đẳng với nam giới. Như thế quan điểm bình đẳng giới đã có từ trước thời Khổng tử hàng ngàn năm.
Bây giờ nhiều chị em đảm nhiệm trọng trách từ trong nhà đến xã hội. Nhu cầu làm nhà là chung cho cả nam và nữ; nếu chồng phạm Kim Lâu, người vợ không phạm Kim Lâu, vẫn có thể đứng tên làm chủ công trình. Lại không ít chị em sống một mình, nuôi dạy con trưởng thành…(chồng chết hoặc chấp nhận nuôi con một mình). Khi họ làm nhà, đương nhiên phải xem tuổi của mình; vì đó là ngôi nhà của chính mình, một phụ nữ sống độc lập.
Như vậy: Làm nhà xem tuổi đàn ông hay đàn bà đều được.(Người đứng chủ công trình)
Còn việc “Lấy vợ xem tuổi đàn bà”? Ngày trước “nam nữ thụ thụ bất thân”, nhà trai phải nhờ bà mối hỏi tuổi người con gái (lễ vấn danh), để nhà trai xem tuổi hai cháu có hợp không, mới quyết định việc hôn nhân.
Bởi thế: Việc lấy vợ hay lấy chồng từ xưa đến nay, vẫn phải xem tuổi của cả trai và gái.
– Trong thuật Phong Thủy còn đề cập đến việc tránh các năm Hoang Ốc, Tam Tai… Nhưng những năm đó là những năm hạn không ảnh hưởng lớn và quyết định việc Họa – Phúc sau khi làm nhà. Bởi vậy Thuật Phong Thủy vẫn nhấn mạnh tránh phạm Kim Lâu là chính trong việc làm nhà.
– Trên tinh thần phổ thông những điều cần biết, chúng tôi thấy không cần thiết đi sâu vào việc trình bầy các năm Hoang Ốc và Tam Tai! Tránh cho độc giả phải phân tâm không đáng có.
II. TRÁNH NĂM XUNG TUỔI NGƯỜI LÀM NHÀ
Theo thuyết Âm Dương Ngũ Hành, trong 12 địa chi có 6 cặp xung khắc là:
Tý xung Ngọ. Mão xung Dậu. Tỵ xung Hợi. Dần xung Thân. Thìn xung Tuất. Sửu xung Mùi.
Xem xét một trường hợp cụ thể sau: Ông Hà sinh năm 1975, tuổi Ất Mão.
– Xét xung hàng Chi tuổi Ất Mão.
Theo thuyết Âm Dương Ngũ Hành, chi Mão xung với chi Dậu. Liệu tuổi Ất Mão của ông Hà có xung với mọi tuổi Dậu không?
Trong một vòng Hoa Giáp 60 năm: có 5 năm Dậu là: Ất Dậu, Đinh Dậu, Kỷ Dậu, Tân Dậu, Quý Dậu.
Đối chiếu Ngũ hành của tuổi Ất Mão với Ngũ hành của 5 tuổi Dậu trên, để xem tuổi Dậu nào xung với tuổi Ất Mão?

Như vậy tuổi Ất Mão, xung khắc hàng Chi chỉ có 2 năm là Đinh Dậu và Kỷ Dậu. Đây là hai năm tuổi Ất Mão phải tránh. Ông Hà làm nhà phải tránh hai năm này.
Còn lại 3 năm: Ất Dậu, Tân Dậu, Quý Dậu có tránh không? Thường là người ta cũng hay tránh. Nhưng xét ra vẫn có hai năm có thể làm việc đại sự được. Đó là 2 năm Quý Dậu và Ất Dậu.
Quý Dậu hành Kim, Kim sinh Thủy, trường hợp này Ất Mão hành Thủy có lợi.
Ất Dậu hành Thủy, Ất Mão cũng hành Thủy, hai bên tương hòa không ảnh hưởng nhau.
Liên hệ sang hôn nhân, tuổi Ất Mão vẫn lấy được người tuổi Quý Dậu hoặc Ất Dậu.
Còn năm Tân Dậu tuy là tương sinh, nhưng không làm việc lớn được, vì Ất Mão hành Thủy sinh Mộc của Tân Dậu. Trường hợp này Ất Mão hao tổn. Mặt khác can Ất xung can Tân. Đã hao tổn và xung can cần tránh.
– Xét xung hàng Can tuổi Ất Mão.
Trong 10 thiên can có 4 cặp xung khắc là: Giáp xung Canh, Ất xung Tân, Bính xung Nhâm. Hai can Mậu và Kỷ không xung.
Theo thuyết Âm Dương Ngũ Hành, can Ất xung với can Tân. Trong một vòng Hoa Giáp 60 năm, có 6 năm can Tân là: Tân Sửu, Tân Mão, Tân Tỵ, Tân Mùi, Tân Dậu, Tân Hợi.
Đối chiếu Ngũ hành của Ất Mão với Ngũ hành của 6 năm can Tân trên, xem Ất Mão xung với những năm nào?

Xem trên, ta thấy tuổi Ất Mão bị 2 năm Tân Sửu và Tân Mùi xung mạnh nhất. Hai năm này đều hành Thổ. Thổ khắc Thủy, vì đất luôn chặn dòng chảy của nước. Tuổi Ất Mão của ông Hà phải tránh hai năm này.
Như vậy tuổi Ất Mão, xung khắc hàng Can chỉ có 2 năm là Tân Sửu và Tân Mùi. Đây là hai năm tuổi Ất Mão phải tránh.
Còn lại 4 năm Tân Mão, Tân Tỵ, Tân Dậu, Tân Hợi thì sao?
– Hai năm Tân Tỵ và Tân Hợi, tuổi Ất Mão có thể làm việc lớn được. Vì Kim sinh Thủy, Ất Mão có lợi, không bị hao tổn.
– Còn 2 năm Tân Mão, Tân Dậu tuy là tương sinh; nhưng Ất Mão bị hao tổn. Vì Thủy sinh Mộc. Bởi vậy 2 năm này, tuổi Ất Mão cũng không được khởi sự làm việc lớn.
Tóm lại Ông Hà sinh năm 1975, tuổi Ất Mão; cần tránh 6 năm sau:
Đinh Dậu, Kỷ Dậu, Tân Sửu, Tân Mùi, Tân Dậu, Tân Mão.
                                                              Còn nữa
                                                      Nguyễn Quý Phong