NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ TANG LỄ - Phần Thứ Ba

NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ TANG LỄ - Phần Thứ Ba

Chương Thứ Hai (B)

II – NHỮNG VIỆC TỪ LỄ PHÁT TANG ĐẾN AN TÁNG

Vận dụng Thọ Mai Gia Lễ, chúng ta chỉ làm những việc không thể bỏ được, vì nó là một tục lệ đã ăn sâu vào tâm thức người Việt, trở thành một Luật tục. Mà luật tục có sức mạnh hơn Luật pháp nhiều! Vấn đề là phải có cách ứng xử hợp lý trong điều kiện mới, vừa đậm đà bản sắc dân tộc vừa thể hiện tính Văn hóa truyền thống.
Nhập quan xong, làm lễ phát tang ngay. Chung quy lại có 6 việc chính từ khi phát tang đến khi an táng:

1) LỄ PHÁT TANG.
Lễ Phát tang còn gọi là Lễ Thành phục – Mặc áo tang, chính thức chịu tang từ giờ phút này.
Trước hết đánh ba hồi chín tiếng trống đại, hội nhạc tang tấu lên khúc nhạc bi ai buồn thảm bằng bài “Lâm khốc”. Báo hiệu Lễ phát tang bắt đầu, cũng là để báo cho cộng đồng dân cư biết: Sau phát tang đến phúng viếng và chia buồn với tang chủ.
Con cháu chịu tang đứng trước bàn thờ vong, theo thế thứ trong gia tộc. Tang chủ đứng giữa. Chủ Lễ bắt đầu cuộc lễ. Hiện nay phần lớn đều do thầy cúng thực hiện việc này.
Nội dung Lễ phát tang chủ yếu nêu nỗi đau buồn, tiếc thương vô hạn của người sống đối với người đã khuất. Nhớ lại công lao trời biển của Cha Mẹ, đã vất vả nuôi con cháu trưởng thành. Kể tên đầy đủ người chịu tang gồm con, cháu, dâu, rể anh em…
Thực hiện nghi thức thắp hương và dâng rượu, nước cho người đã khuất thụ hưởng, cũng là thể hiện lòng thành báo hiếu của con cháu, dâu rể đối với Cha Mẹ…
Sau khi lễ hoàn tất, tang chủ ra đứng bên bàn thờ vong, để đáp lễ khách phúng viếng. Các con nên thay nhau đứng túc trực. Con cháu chịu tang vào ngồi hai bên quan tài, nỉ non ai oán khóc !….

* *
– Giới thiệu một bài văn tế Thành phục trong Thọ Mai Gia Lễ:
Duy…niên hiệu…năm…tháng…ngày…
…Tỉnh…huyện…Tổng…Làng
Con là…trước linh sàng…khóc mà than rằng:
Than ôi! Sương sa mưa đổ, mây phủ núi mờ
Hỏi Hóa công sao khéo đa đoan,
Cho người thế thế thời lại thế
Aó tang trắng trước thềm đau xót thế,
Than ôi! Lòng báo hiếu phận làm con,
Sầu đa đoan trong dạ chất thành non,
Tâm đau sót sóng vỗ làn dâu bể,
Nhạt nhòa nhỏ lệ tưởng nhớ vong linh.
Nhân nay tang phục đã an,
Kính dâng một lễ gọi là dốc lòng báo hiếu thủy chung.
Kính! ngàn thu suối vàng an nghỉ!
Thượng hưởng!

2) NHẠC TANG.
Dân ta có câu: “Sống dầu đèn, chết kèn trống!” Xem vậy đủ biết, trống kèn trong tang lễ không thể thiếu được.
Trong đám tang, kèn trống chỉ bắt đầu từ Lễ phát tang, cho đến khi an táng xong về nhà làm lễ cúng an vị bàn thờ người mới mất là kết thúc. Thực hiện nếp sống Văn hóa, từ 22 giờ kèn trống ngừng, không nên kèn trống cả đêm như ngày trước, chỉ bắt đầu sau 5 giờ sáng để khỏi ảnh hưởng tới cộng đồng.
Hội kèn trống còn có cách gọi khác là “Ban nhạc Hiếu”, hay “Phường bát âm”. Tiếng trống kèn được coi là những lời khóc than, thương tiếc của con cháu và cũng là âm thanh tiễn đưa hồn người chết về nơi chín suối với ông bà tổ tiên.
Một số nơi đã thực hiện thu băng cassette, các bài nhạc tang để dùng trong tang lễ. Qua một thời gian thực hiện người ta cứ bỏ dần. Mặc dù có sự khuyến khích và nâng lên thành quy chế làng Văn hóa. Nhưng vẫn không duy trì được. Đây là một thực tế, ngành Văn hóa cần nghiên cứu và hướng dẫn sao cho phù hợp cuộc sống.
Khi đời sống kinh tế được nâng cao, người ta không chấp nhận thứ nhạc “chết” vô hồn ấy. Ấy là chưa kể các hội kèn trống, còn làm thỏa lòng con cháu khi họ muốn qua hội kèn trống, cất lên tiếng than ai oán của lòng mình đối với người đã mất. Bởi vậy Hội kèn trống là một thứ “nhạc sống có hồn” đáp ứng ý muốn mọi người.
Một số nơi có tập tục, người chết trẻ không có nhạc tang, chỉ đánh trống lúc phát tang và khi an táng.
Ngày trước trong đám ma, phường nhạc hiếu thường chơi hai bản “lâm khốc” và “lưu thủy” vừa bi ai, vừa lưu luyến làm mủi lòng người. Nhất là khi đêm xuống, đám tang chuyển sang phần ai vãn, não nuột nỉ non lắm.
Nhưng hiện nay đã có sự lạm dụng thái quá. Việc “khóc mướn” gần như phổ biến, ngày càng mang tính chuyên nghiệp, có bài bản lớp lang; có nỗi đau của người sống và cả lời “dặn dò” của người đã khuất.
Ví dụ: Lời người con ở xa về chịu tang:
“Mọi khi nhận điện thì vui,
Hôm nay nhận điện rụng rời chân tay.
Ước gì con được về ngay,
Để con báo đáp công này mẹ ơi”!!!
Còn đây là lời dặn dò con cháu của người đã khuất:
“Tuổi Mẹ nay đã Tám mươi,
Biệt ly con cháu ngậm ngùi, xa nhau.
Thương Mẹ thì hãy nhớ câu.
Cháu con hiếu thảo khắc sâu trong lòng!”
Không ít những đám tang có cả nhạc trẻ, thậm chí còn đưa cả nhạc nước ngoài vào. Một số vùng còn mời hội kèn đồng bên công giáo, phục vụ đám tang cho thêm phần hoành tráng! Đã có ban nhạc thổi kèn bài “Love You More Than I Can Say, Sealed With A Kiss hay Oh! Carol” !!!

3) LỄ CÚNG SÁNG TỐI.
Lễ này gọi là “Chiêu tịch điện – Cúng sáng tối”
Từ xưa vẫn cho rằng khi chưa an táng, còn quàn quan tài ở nhà, coi như cha mẹ còn sống. Trong ngày, buổi sáng và buổi tối vấn an thăm hỏi và mời bố mẹ xơi cơm, đi ngủ như thường vậy! Việc cúng này bây giờ cũng đơn giản, đến bữa dọn mâm cúng, thắp hương thành tâm khấn mời bố mẹ dùng bữa!
Trước kia việc cúng này khá rườm rà. Ngày nay đã bỏ đi nhiều.
                                                    *
                                                   * *
Theo Thọ Mai Gia lễ, khi chưa an táng coi như người còn sống, buổi sáng mời vong dậy mà ăn, buổi tối mời vong đi ngủ!
Ngày trước đặt cạnh quan tài một cái giường gọi là Linh sàng, trên giường đặt Hồn bạch. Hồn bạch là một giải lụa trắng, khi người chết đặt lụa trên xác để lấy hơi, rồi mang lụa ra kết thành hình người. Ban ngày thờ hồn bạch trên bàn thờ vong, ban đêm đưa hồn bạch vào linh sàng cho vong ngủ! Ngày xưa chưa có ảnh, kết hồn bạch coi như người còn sống vậy.
Cứ sáng dậy con cháu vào linh sàng khóc ba tiếng, cuốn màn lên rồi tang chủ quỳ xuống mà khấn:
“Nhật sắc di minh thỉnh nghinh linh bạch vu linh tọa. Cẩn cáo!
日色眱明請迎靈帛于靈坐 。謹告!
Giờ đã sáng rồi, rước linh bạch ngự linh ra tọa. Cẩn cáo!”
Lễ một lễ, rước hồn bạch ra bàn thờ vong, rồi cúng cơm.
Bắt đầu tiến hành lễ, cũng có đủ các thủ tục xướng lễ, thắp hương, rót rượu, dâng cơm cúng, dâng trà gần như lễ phát tang, rất phiền phức.
Buổi tối tang chủ lại rước hồn bạch vào linh sàng, buông màn khóc lên ba tiếng rồi khấn:
“Nhật thời hưng mộ thỉnh nghinh linh bạch vu tẩm sở. Cẩn cáo!
日時興暮請迎靈帛于寖所。謹告
Trời đã tối rồi rước linh bạch vào giường ngủ. Cẩn cáo!”
Việc làm này bày tỏ nguyện vọng con cháu, được hầu hạ cha mẹ trước khi đi xa. Cũng là tấm lòng báo hiếu vô hạn. Nhưng bây giờ xét ra quá phiền phức, không ai làm như vậy nữa. Chắc rằng vong linh cha mẹ, cũng không muốn con cháu mình làm thế! Nêu lại vậy, để độc giả tham khảo sự phức tạp không cần thiết, bỏ đi cũng phải lẽ vậy.

4) ĐỘNG QUAN.
Đêm trước hôm an táng, thường vào giờ Tý (23 – 24 giờ) thực hiện động quan,tức là nâng quan tài lên và đặt xuống ba lần, cũng có thể xoay nghiêng hai bên. Cuối cùng xoay đầu quan tài ra trước để tiện việc đi an táng. Việc làm này như một động tác trở mình của cha mẹ còn đang ngủ! Nâng giấc cho cha mẹ khỏi mỏi và ngủ ngon hơn! Thế mới biết việc báo hiếu được quy định chặt chẽ đến dường nào!
                                            *
                                           * *
Theo Thọ Mai Gia lễ, tang chủ quỳ trước cữu mà thanh rằng:
“Kim dĩ cát thời động quan. Cẩn cáo!
今以吉時動棺。謹告
Nay được giờ lành xin động quan. Kính cáo!”
Ngày trước còn có việc chuyển cữu, tức là di chuyển áo quan về nhà thờ tổ để tế, sau người ta chỉ rước hồn bạch sang nhà thờ tổ.
Nghi thức này bây giờ đã bỏ, người ta chỉ làm động quan thôi.

5) PHÚNG VIẾNG.
Phúng viếng là biểu hiện tình cảm sâu nặng của những người trong họ tộc, của bà con trong xóm, ngoài làng ở cộng đồng dân cư và của các cơ quan đoàn thể đối với người quá cố; đến chia buồn với gia đình và tỏ lòng thương cảm, thắp nén tâm nhang để vĩnh biệt người đã khuất. Dù bận rộn đến đâu cũng thu xếp về, không quản đường xá xa xôi cố gắng đến kịp trước giờ an táng với tấm lòng “nghĩa tử là nghĩa tận!”.
Để việc phúng viếng được tốt và chu đáo, ban lễ tang bố trí rạp, bàn ghế và trầu, thuốc, nước cho khách chờ. Thỉnh thoảng đọc tiểu sử, lai lịch người quá cố và thời gian biểu lễ truy điệu, lễ an táng cho mọi người đều biết.
Có bàn đăng ký các đoàn viếng, sắp xếp lịch trước sau; có người xếp vòng hoa, các câu đối, bức trướng phúng.
Tang chủ luôn túc tực bên quan tài để đáp lễ. Một người hộ việc tang chủ, quan sát khách viếng để thắp hương, rồi đưa hương cho từng người đến viếng.
Ban Lễ tang đọc thông báo cho gia đình và mọi người biết, các tập thể và cá nhân đến viếng. Ban nhạc hiếu tấu lên khúc nhạc ngắn trong khi đoàn vào, rồi dừng cho khách nói lời chia buồn với tang chủ và thắp hương. Người đến viếng vái hai vái, (vì chưa an táng coi như vái người đang sống). Tang chủ đáp lễ, cũng vái hai vái. Người viếng có thể đi vòng quanh quan tài nhìn và vĩnh biệt người chết lần cuối.
Hiện nay phúng viếng thường có vòng hoa, bức trướng và phong bì tiền. Một nét đẹp Văn hóa của ta. Nhưng đây cũng là việc nhạy cảm, đơn vị, cơ quan, người đi phúng viếng cần biết giới hạn. Nếu vượt ngưỡng sẽ trở nên mất ý nghĩa.
– Về Câu đối phúng viếng:
Ngày trước hay đi câu đối, nội dung câu đối hợp với cảnh nhà, cảnh người đã khuất và mối thâm tình của người viếng. Các nhà nho, văn nhân kẻ sĩ, quan chức thường làm câu đối phúng viếng bạn bè thân hữu qua đời. Nhiều câu đối rất hay còn lưu lại mãi. Thi hào Nguyễn Du mất, có một câu đối được truyền tụng nhiều nhất, vì nó nói gọn và đầy đủ sự nghiệp cuộc đời của Ông:
“Nhất đại tài hoa, vi sứ, vi khanh, sinh bất thiểm.
Bách niên sự nghiệp, tại gia, tại quốc, tử do vinh
一代才华,為使,為卿,生不忝
百年事业,在家,在國,死由荣
Nghĩa là:
Tài hoa một bậc ai tày, làm sứ, làm khanh, sinh chẳng nhục.
Sự nghiệp trăm năm để lại, ở nhà, ở nước, thác còn vinh.
Bây giờ câu đối phúng có chiều hướng ít đi, cũng là điều đáng tiếc. Một nét đẹp Văn hóa, nên chăng cần được khuyến khích khôi phục lại.
– Về bức Trướng:
Các Đoàn thể, cơ quan đơn vị và các gia đình thông gia, thường làm bức trướng. Với nội dung sát thực như: “Vô cùng thương tiếc…” rồi ghi tên đơn vị, đoàn thể và gia đình ông bà…Kính viếng!.
Một số bức trướng mà nội dung là những công thức có sẵn như: “Tây thiên cực lạc西天极樂 ”, “Tiên cảnh nhàn du 仙景嫻遊”, “Thiên thu vĩnh biệt 千秋永別” có hình Phật bà quan âm tỏa sáng. Trong khi người mất không phải là Phật tử!. Lại có đám nhầm sang chúc thọ ghi câu: 福如東海。壽比南山“Phúc như Đông hải. Thọ tỷ Nam sơn! ”
Hiện nay bức trướng thường xử dụng mầu đỏ, thực ra chưa được hợp cách với mầu tang chế. Mầu tang chế của Việt nam là hai mầu đen trắng. Trước đây điều này quy định rất chặt chẽ. Hàng con cháu, câu đối phúng bao giờ cũng làm bằng vải trắng.
Người ta chấp nhận bức trướng có hình Phật bà quan âm, mặc dù không phải ai cũng là tín đồ Phật giáo. Bởi lẽ đạo Phật du nhập trước tiên và có ảnh hưởng hàng ngàn năm nay rồi.
Người viếng câu đối và bức trướng, cần chú ý nội dung cho đúng và hợp người, hợp cảnh, đồng thời có tính Văn học. Nhất là câu đối, quan khách đến viếng, xem và thưởng thức phẩm bình nữa.
– Tiền phúng viếng:
Ngày trước thường hay viếng rượu, vàng, hương. Có đám tới vài trăm chai rượu. Bây giờ tục viếng rượu đã thôi hẳn. Người đi viếng chủ yếu là tiền bỏ trong phong bì, có thể thêm vàng hương. Xét ra, cũng là việc nghĩa, góp một phần cho tang chủ, với ý nghĩa đó thì không sao cả.
– Vòng hoa tang:
Phần lớn các đơn vị, tổ chức, cơ quan, dòng họ…làm vòng hoa tang viếng. Cách thức và kiểu dáng mỗi vùng không giống nhau. Miền Bắc thường làm vòng hoa hình bầu dục nổi vồng cao lên. Miền Nam lại làm vòng tròn, có từ một đến ba vòng đều phẳng. Trên vòng hoa là một băng vải đen chữ trắng, ghi rõ đơn vị cơ quan hoặc người chủ viếng…
Mầu sắc hoa ở miền Bắc cũng quy định chặt chẽ. Người chết trẻ, hoa hoàn toàn trắng, thể hiện sự trong trắng trinh nguyên của tuổi mới lớn.
Phúng viếng là một nét đẹp Văn hóa trong phong tục Việt nam. Thể hiện tình cảm sâu nặng của những người đang sống với người đã từ giã cõi đời. Khi sống có lúc ăn ở không vừa lòng nhau, nhưng khi đã vĩnh biệt; người chết đã dứt nợ trần gian. Hãy để cho một linh hồn được thanh thản và siêu thoát trở về nơi cực lạc. Không ai tránh khỏi cái chết, rồi cũng sẽ đến lượt như nhau cả thôi.
Nên điều chỉnh việc phúng viếng từ câu đối, bức trướng đến tiền và vòng hoa có giới hạn, thật sự là một nét đẹp Văn hóa trong cộng đồng. Sao cho khỏi lãng phí và thực sự trong sáng. Điều này phải xuất phát từ động cơ chân thành không vụ lợi của người và tập thể đi viếng.

6) LỄ AN TÁNG.


Lễ an táng còn gọi là Lễ “Phát dẫn 發靷–đưa ma”.
Được giờ tốt đã chọn, mới tiến hành lễ. Thực hiện lễ an táng có 4 việc theo trình tự sau:
a-) Cúng lễ trước khi di quan, còn gọi là lễ “Khiển điện -繾奠 – tiễn biệt”.
Đây là việc của gia đình. Thầy cúng hoặc tang chủ cùng con cháu nội ngoại thực hiện Lễ tiễn biệt người quá cố về nơi an nghỉ cuối cùng.
Mọi người theo thế thứ trong nội ngoại gia tộc, xếp hàng trước bàn thờ vong. Thầy cúng hoặc tang chủ thực hiện các bước thắp hương dâng rượu, nước, trang nghiêm như lễ phát tang và đọc lời ai điếu tiễn biệt lần cuối. Con cháu thành kính vái lễ. Quá trình hành lễ, nhạc tang tùy lúc tấu lên khúc bi ai Lâm khốc.
b-) Làm Lễ truy điệu.
Đây là việc của Ban Lễ tang thay mặt Đoàn thể, chính quyền hoặc cơ quan đơn vị…làm sau lễ Khiển điện của gia đình. Bà con trong cộng đồng dân cư, cơ quan đơn vị… và bạn bè thân hữu tập trung trước bàn thờ vong.
Đại diện Ban Lễ tang lên tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu và mời Trưởng ban Lễ tang lên làm chủ lễ.
Chủ lễ trang phục tề chỉnh, trịnh trọng tiến vào bàn thờ vong, thắp ba nén hương rồi vái hai vái. Tang chủ của gia đình đáp lễ cũng vái lại hai vái. Lúc này phường bát âm tấu lên khúc nhạc Lâm khốc não nùng! Mọi người lặng im trong không khí lễ tang.
Chủ lễ bắt đầu hành lễ, đọc điếu văn. Chủ lễ đọc điếu văn cần chú ý diễn đạt nỗi đau thương của mọi người, thực sự chân thành xúc động; bằng giọng đọc sâu lắng truyền cảm. Lúc hào hùng khi nói về sự nghiệp công lao đóng góp của người đã ra đi. Khi thiết tha da diết về nỗi đau mất mát một người thân yêu…(Tránh đọc điếu văn như đọc một bản báo cáo!)
Nội dung điếu văn chủ yếu nói về thân thế sự nghiệp. Công lao đóng góp của người đã mất với cộng đồng và xã hội. Công lao sinh thành dưỡng dục con cháu nội, ngoại trưởng thành. Phần thưởng được tặng…Nỗi đau buồn của gia đình và mọi người từ nay mất một người chồng, cha, người bạn v.v…
Đại diện Ban lễ tang tuyên bố một phút mặc niệm tiễn biệt người đã khuất, từ nay mãi mãi ra đi không bao giờ trở lại!
Mọi người mặc niệm lần cuối một phút, rồi mới thực hiện di quan ra xe.
Tùy vị trí xã hội của người mất mà thực hiện nghi lễ theo quy định.
Cựu chiến binh được phủ quân kỳ lên quan tài. Các cựu binh mặc sắc phục nhà binh, đứng trực hai bên quan tài, theo hướng dẫn của quân đội.
• Tham khảo một trường hợp cụ thể.
Điếu văn cụ Hoàng Chí Mạnh.
(Do ông Đoàn Văn, Bí thư Đảng bộ Xã Mai Xuân – Trưởng Ban Lễ tang đọc)
Kính thưa các Quý Vị!
Kính thưa các cụ, các ông, các bà, các anh chị cùng họ hàng gia quyến của cụ Hoàng Chí Mạnh!
Cụ Hoàng Chí Mạnh của chúng ta đã từ biệt cõi trần vào hồi 8 giờ 45 phút ngày 19 tháng 8 năm 2009 tại gia đình, hưởng thọ 85 tuổi.
Hôm nay, tất cả chúng ta có mặt nơi đây, để vĩnh biệt Cụ về cõi vĩnh hằng.
Than ôi!
Đau đớn thay!
Đời người là hữu hạn! Vũ trụ lại vô cùng!
Nếu có được Thần y Biển Thước – Hoa Đà, cũng bó gối bởi mệnh trời đã điểm!
Dẫu tìm ra Tiên dược Trường Sinh – Bất Lão, đành khoanh tay vì hoa nở phải tàn!
Biết rằng Sinh Lão Bệnh Tử là quy luật tự nhiên, nhưng trong cảnh tử biệt sinh ly này; lòng mỗi người chúng ta, ai cũng cảm thương vô hạn!
Cụ Hoàng Chí Mạnh, sinh ngày 16 tháng 11 năm 1925 tại Thôn Vân Hoàn, Xã Mai Xuân, huyện Ngọc Hải… Cụ sinh ra trong một gia đình nông dân yêu nước.
Cụ sớm giác ngộ cách mạng khi còn tuổi Thanh niên. Cách mạng Tháng Tám thành công, Cụ tham gia phong trào Bình dân học vụ xóa nạn mù chữ.
Năm 1953, Cụ xung phong tòng quân nhập ngũ và tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ. Do có thành tích chiến đấu anh dũng, cụ được kết nạp vào Đảng Lao Động Việt Nam ngay tại mặt trận Điện Biên Phủ ngày 15 tháng 4 năm 1954, đến nay được 57 năm tuổi Đảng!
Năm 1958, Cụ rời quân ngũ phục viên về xây dựng quê hương.
Năm 1960, Cụ làm Tổ trưởng Tổ đổi công, rồi chủ nhiệm HTX nông nghiệp Thôn Vân Hoàn.
Từ năm 1968 đến năm 1975, Cụ làm Phó Chủ tịch Xã Mai Xuân phụ trách Nông nghiệp. Cụ luôn gương mẫu bám đồng lội ruộng, đưa sản xuất nông nghiệp có năng xuất cao, thực hiện tốt phong trào “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc.
Từ năm 1976 đến 1980, Cụ làm Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Xã. Cụ luôn sâu sát cơ sở tìm hiểu nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhân dân, góp phần xây dựng khối Đại đoàn kết toàn dân, đưa phong trào của Xã có nhiều bước tiến mới.
Từ năm 1980 đến 1990, Cụ làm Bí thư Chi bộ Thôn Vân Hoàn. Cụ luôn nêu cao tính chiến đấu, góp phần xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh trong nhiều năm liền.
Từ sau năm 1990 đến nay cụ nghỉ công tác, nhưng vẫn tham gia Hội Cựu chiến binh. Ngoài ra Cụ còn tham gia các tổ chức Xã hội như Hội người cao tuổi, Hội Sinh Vật cảnh và gần đây là Ban Thường trực Hội Thơ Đường UNESCO của huyện nhà.
Dù ở cương vị nào khi còn công tác, cũng như khi đã được nghỉ, Cụ luôn nêu cao một tấm gương mẫu mực, hết lòng phục vụ nhân dân, phục vụ Đảng.
Do có nhiều công lao đóng góp cho Cách mạng, Cụ đã được Đảng, Nhà nước và Quân đội tặng thưởng nhiều phần thưởng và danh hiệu cao quý: Huy hiệu 55 năm tuổi Đảng, Huân chương Kháng chiến trong thời kỳ chống Pháp, Huy hiệu Chiến sĩ Điện biên, Huân chương Chống Mỹ cứu nước hạng nhất, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Ba và nhiều bằng giấy khen trong công tác.
Cụ đã nếm trải một cuộc đời gian khổ, nhưng cụ không hề kêu ca thắc mắc quyền lợi cá nhân. Cụ luôn sống bình dị, lạc quan, sống có ý chí và mục tiêu phấn đấu, không ngừng học hỏi, tìm hiểu những tiến bộ về mọi mặt góp phần xây dựng quê hương
Đối với gia đình, Cụ là người chồng, người cha, người ông mẫu mực,
Hai Cụ sinh hạ được năm người con, hai trai ba gái. Các con dâu rể và các cháu nội ngoại đều trưởng thành, hiện có mười sáu cháu và bốn chút nội ngoại. Cụ luôn chăm lo dạy dỗ việc học hành của các con, các cháu. Cụ thường xuyên động viên con cháu phải học giỏi, học không ngừng để có kiến thức đáp ứng được nhu cầu phục vụ Tổ Quốc. Cụ chăm lo cho cả phong trào khuyến học của quê hương. Đó là niềm hạnh phúc tròn đầy, Cụ được chứng kiến trước khi về nơi an nghỉ cuối cùng.
Kính thưa quý vị,
Công lao của Cụ xứng đáng được ghi nhận một cách trang trọng vào trang sử vẻ vang của quê hương.
Cụ mất đi, Đảng mất một đảng viên trung kiên, đồng đội, bạn bè thân hữu mất đi một người bạn chí tình; vắng mãi bóng Cụ ngâm thơ vịnh nguyệt, lúc nâng ly rượu ngọt, khi mãn cuộc cờ tàn.
Cụ ra đi, vợ con Cụ mất một người ruột thịt thân thương, từ nay tắt lửa, tối đèn, đâu thấy người thấy bóng. Bà con chúng ta mất đi một người vui tính, khi trăng thanh gió mát, đâu nghe tiếng thấy hình…
Than ôi!
Từ nay:
Đêm năm canh vò võ, nhìn ngọn đèn xanh mờ tỏ chốn bàn vong, lòng dạ cháu con đau khôn xiết!
Ngày sáu khắc triền miên, ngó ông mặt trời chói lọi giữa cao xanh, tâm khảm bạn bè buồn nẫu ruột!
Gạt lệ đau thương, mọi người đưa tiễn Hồn Cụ về nơi cực lạc.
Quyết chí bền gan, chúng tôi xây dựng quê ta từng bước đẹp giầu.
Hôm nay, vào thời khắc linh thiêng này, chúng ta cùng nhớ tới Cụ, tự hào vì Cụ.
Cầu mong linh hồn Cụ an nhiên siêu thoát cõi vĩnh hằng trong giấc ngủ ngàn thu… Mong Cụ đi, được mồ yên mả đẹp, sống khôn thác thiêng, phù hộ độ trì cho vợ con Cụ được phúc ấm an lành.
Xin vĩnh biệt Cụ ! Một phút mặc niệm !
Vân Hoàn, ngày 20/8/2009
c-) Di quan.
Trước khi di quan, đại diện gia đình nói lời cảm ơn và xin được lượng thứ, có điều gì khiếm khuyết trong lúc tang gia bối rối.
Bà con trong nội tộc và bạn bè… cùng nâng quan tài bằng tay hoặc đặt trên vai, dưới sự chỉ huy của một người cầm hai thanh tre (phách) gõ hiệu lệnh. Yêu cầu làm sao cho quan tài luôn thăng bằng, đến mức chén rượu để trên nắp quan tài không sánh ra giọt nào. Khi di quan phải thật sự chậm rãi, từ từ từng nửa bước chân một. Vừa thể hiện nỗi đau tiễn biệt muốn níu kéo lại, cũng là vừa đảm bảo cho quan tài luôn được thăng bằng, để người ra đi trong giấc ngủ yên lành!
Một số nơi thành lập đội tùy từ 6 đến 8 người, áo quần đồng phục một mầu, có giầy, mũ và găng tay, làm công việc di quan ra xe tang. Đây là mô hình tốt nên phát triển rộng. Chính quyền thôn làng, khu phố kết hợp Hội người Cao tuổi đứng ra làm. Kinh phí chắc chắn nhân dân ở cộng đồng sẽ hưởng ứng. Vì đáp ứng nguyện vọng chu đáo và nghiêm túc trong Tang lễ. Nên để Hội Người Cao tuổi quản lý các đồ dùng cho Tang lễ.
Ở vùng nông thôn hiện nay, hầu như không mấy đám khiêng quan tài nữa. Làng quê đều có xe tang thô sơ chở quan tài, úp trên quan tài là nhà táng bằng gỗ hoặc khung sắt có phủ vải thêu các hoa văn rồng phượng sặc sỡ.
Thị xã và Thành phố có xe tang đen của Công ty mai táng thực hiện việc này.
Trên đường đưa ma vẫn còn tục rải vàng mã. Nên chăng cần giảm bớt tiến tới bỏ hẳn đi để bảo đảm vệ sinh môi trường.
Hiện nay việc hỏa táng không còn xa lạ với nông thôn. Tuy vẫn còn một số quan niệm cho rằng đốt xác là thiêu nóng, con cháu không đành lòng… Hỏa táng đã có hàng ngàn năm nay rồi. Thích Ca Mâu Ni cũng hỏa táng, các nhà sư nước ta trước đây cũng đã có người hỏa táng…
Hỏa táng vừa khoa học đảm bảo vệ sinh môi trường, vừa kinh tế giảm bớt diện tích chôn cất, vừa hợp lý con cháu chỉ làm một lần…
Bây giờ nhiều tỉnh đã có lò hỏa thiêu ngày càng sử dụng công nghệ hiện đại. Đài hóa thân hoàn vũ Phúc Lạc Viên Thanh Hóa hỏa táng theo công nghệ của Thụy Điển, đây là công nghệ hiện đại nhất tại Việt Nam hiện nay.
Ngày 15/1/2017, Tổng công ty CP Hợp Lực (Thanh Hóa) tổ chức lễ khánh thành giai đoạn 1 – Dự án Phúc Lạc Viên – đài hóa thân Hoàn Vũ tỉnh Hà Tĩnh.
                                                         *
                                                        * *
Ngày trước thực hiện theo Thọ Mai Gia Lễ, việc đưa ma vô cùng phiền phức: Đi đầu là hai phương tướng mặc áo mũ đạo sĩ, đeo mặt nạ, cầm dao hoặc binh khí để trừ tà ma, rồi đến đoàn người vác cờ tang. Tiếp là Minh tinh, Vòng hoa, Trướng, Câu đối, Linh xa, Phường bát âm có phèng phèng, thanh la, kèn, trống. Rồi đến đoàn người khiêng Nhà táng. Nhà táng làm bằng khung tre nứa, dán giấy mầu, chạm trổ các hoa văn và hình rồng phượng tinh xảo sặc sỡ, úp trên quan tài. Nhà phú qúy, nhà táng làm cao ba tầng như một cung điện nguy nga!
Sau cùng là đoàn người đi đưa ma… Người chết là phật tử còn có đoàn đội cầu. Cầu là một băng vải mầu, dài trên 10 mét, hai diềm may vải mầu khác loại. Các già đi dưới cầu, tay lần tràng hạt, miệng đọc kinh, cầu cho người ra đi chóng được an nhiên siêu thoát.
Trưởng nam thì phải cha đưa mẹ đón. Tang cha, con trai phải đi chân đất, chống gậy tre đi sau quan tài, gọi là “đưa”. Tang mẹ, con trai phải đi chân đất, chống gậy vông đi lùi trước quan tài, gọi là “đón”. Con gái và nàng dâu khi đến cầu và ngã ba phải nằm xuống đất cho người ta khiêng quan tài qua, gọi là “lăn đường”. Đây là một hủ tục xét ra không cần thiết. Bây giờ không ai làm nữa. Hiếu tại tâm mới là chí hiếu. Ở vùng quê ngày trước, một đám tang từ nhà ra nghĩa địa khoảng một cây số, nhưng phải đi mất một buổi mới tới nơi hạ huyệt . Bởi vậy trên đường đi phải có nhiều trạm nghỉ.
Nhà phú quý còn có nhà trạm, để dừng nghỉ và cúng tế giữa đường, đến nghĩa địa lại có trạm tế trước khi hạ huyệt. Đoàn người đưa tang đi thật chậm, dưới sự chỉ huy của một người gõ phách giữ nhịp và luôn giữ thăng bằng quan tài. Người khiêng phía trước điều chỉnh tốc độ, không cho người phía sau bước nhanh được.
                                                          *
                                                         * *
d -) Hạ huyệt.
Đến nơi hạ huyệt, đặt hai đòn tre ngang qua huyệt. Di quan tài đặt trên hai đòn tre. Lồng hai giây chão chắc chắn dưới quan tài, dùng khi hạ quan tài cho thuận tiện.
Sau khi ổn định các thứ mang theo, mọi người đứng xung quanh. Bắt đầu hành lễ. Trước hết là Lễ cáo Thổ thần xin cho người chết được nhập mộ. Tiếp theo là lễ vĩnh biệt lần cuối, xưa gọi là lễ “Thành phần城墳 – đắp mộ”. Trong Lễ Thành phần cũng đủ các bước do thầy cúng điều khiển.
Xong Lễ hạ quan tài, chỉnh hướng cho phù hợp hướng của năm. Trải tấm minh tinh lên nắp quan tài. Con cháu lui ra, vì không ai nỡ chôn người thân. Bạn bè thân hữu bỏ nắm đất vĩnh biệt. Người ngoài hoặc ban quản trang làm công việc chôn và đắp mộ. Có nơi lát một lớp cỏ che kín mộ. Chôn bia tạm, để bát cơm cúng, chén rượu trên mộ, thắp hương trước bia và trên mộ, xếp vòng hoa tang chung quanh.
Mọi người đi một vòng quanh mộ, tiễn biệt lần cuối người ra đi về nơi an nghỉ cuối cùng.
Nếu có nhà táng giấy, đốt luôn cùng với những thứ đồ dùng của người chết thấy cần thiết phải đốt.
(Còn nữa…)

Xem thêm

Nội dung mặt trước bia Trùng tu Phượng Hoàng thị kiều bi

Nội dung mặt trước bia Trùng tu Phượng Hoàng thị kiều bi

* Nguyên văn chữ Hán : 重修鳳凰市橋碑 重修鳳凰橋施本府市牛市為三寶碑銘 常謂水上爲梁所以度行人之來往日中爲市所以通天下之貨財惟此鳳凰橋本府市介在永福淳祐之間土高爽塏地廣坦平行客之所往来貨財之所貿易真湯沐邑中大去大来大都會處也迩因星霜屡阕風景頓殊時人不能無燕麥鬼葵之感。 恭惟 世宗毅皇帝老皇皇太后以天下母爲佛中聖心福地目慈天發無量之心種將来之福當時達官及諸善信人咸願爲之助費閨錢腰帯怡然壹舍荆木昆瓦駢然四来廼於。 弘定拾五年柒月拾弍日旦伐蠲恊穀徠起鳩工離娄之明以督其绳公輸之巧以削其墨經之营之不浹旬而未雨之龍止齎之虹已橫跨於波上矣水由地中行人從橋上達原本府市玆施三寳致天下之人聚天下之貨商賈之居行共便貨財之貿易皆通举欣欣然誾誾然於帝日帝天之下咸熙熙焉皡皡焉於王途王路之中會其有極歸于有極普荷吾。 帝王萬萬年建極錫福之功大矣是則斯橋之作斯市之施其及人之功之德顧可量耶以此河沙慶善于祿百福于其身于其子孫穆穆皇皇绵绵延延祚胤处处基圖鞏固其億萬年無彊之休乎。 銘曰: 帝鄉福地,鳳凰橋名,規摸雄麗,制度恢宏,雲飛畫棟,雨捲惟亮,棟扶圖祚,磐奠瑤京,義取噬嗑,市会日中

By Quý Phong