NỘI DUNG THUYẾT NINH VIDEO LÀNG CỔ DUY TINH KÍ SỰ

NỘI DUNG THUYẾT NINH  VIDEO LÀNG CỔ DUY TINH KÍ SỰ


Đầu Video:
Dùng hình ảnh hoa hồng đang nở (hình động) sau nền chữ “LÀNG CỔ DUY TINH KÝ SỰ” tiếp là hình ảnh tiêu biểu của Làng: Chùa, Tượng Phật, Bia, Chợ, Cầu, Cây đa, Giếng nước, Tượng Lý Thường Kiệt…; kết hợp âm thanh: Nhạc dân tộc, chuông chùa, gà gáy sáng, tiếng cu gáy gợi về một làng quê Việt nam cổ kính.
Đề từ:
Kính tặng Làng cổ Duy Tinh
Quê hương yêu dấu của tôi.
Nguyễn Quý Phong – 2012

                                                     Tập Một
                                          VỊ TRÍ ĐỊA LÝ

Làng Duy Tinh là quê hương yêu dấu của chúng ta.
Duy Tinh thuộc xã Văn Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Hậu Lộc là một huyện có biển, có rừng và đồng bằng tốt tươi. Nhân dân Hậu Lộc vốn có truyền thống lao động cần cù, yêu nước chống giặc ngoại xâm và một bề dày Văn Hóa lâu đời.
(Dùng bài hát “Tình ca Hậu Lộc” ca sĩ Anh Thơ trình bày, kết hợp minh họa bằng hình ảnh và clip – Chuyển đoạn bằng hình ảnh và nhạc ngắn.)
Làng Duy Tinh quê ta, còn có tên gọi làng Chợ Phủ.
Tên Duy Tinh vốn lấy trong sách cổ Kinh Thư. Ý của tiền nhân muốn nhắc nhở các thế hệ người làng ta phải biết giữ cái tâm của mình luôn thuần khiết, tinh túy và trong sáng.
Lịch sử ghi rõ: năm 1029 Lý Công Uẩn cho dời lỵ sở trấn Thanh Hoa từ Đông Phố Làng Giàng Thiệu Hóa về làng Duy Tinh. Như vậy tên Duy Tinh phải có từ thời Lý hoặc là trước nữa.
Làng Duy Tinh ở Tây Nam huyện Hậu Lộc. Phía Tây là sông Trà giang, qua cầu Phủ gặp hai làng Bản Định và Đại An của huyện Hoằng Hóa; ngược phía Bắc là xã Mỹ Lộc, xuôi phương Nam là xã Thuần Lộc, nhìn về phía Đông là các làng Mỹ Điện – Mỹ Quang – Hà Mát và làng mới Văn Xuân của xã Văn Lộc.
(Chuyển cảnh bằng hiệu ứng và nhạc ngắn)
Làng Mỹ Điện xưa là một vùng hoang vu rậm rạp, thuộc đất làng Duy Tinh. Vào thế kỷ thứ 17 ông Nguyễn Thủ người làng ta, ở Xóm Hàng Gà chuyển cư ra khai phá.
Qua năm tháng cải tạo đất đai mầu mỡ tốt tươi, anh em trong họ là ông Nguyễn Thịnh, nhà bà Hậu Thinh cùng ra lập nghiệp, rồi một số gia đình họ Lê, họ Bùi trong làng ra quần tụ cùng một số người quanh vùng đến ở, thành một xóm trù phú.
Nơi đây trước có đền Phong Ngãi, xóm ở cạnh đền nên gọi là Xóm Đền.
Đền Phong Ngãi thờ bà Hoàng Thái Hậu Nguyễn Thị Minh Thụy thời hậu Lê, người đã có công trùng tu xây dựng Cầu và Chợ Phủ. Thủ từ coi đền là người làng ta.
Sau năm 1945 Đền Phong Ngãi không có người chăm sóc nữa. Thế gian biến cải, thời thế đổi thay, sự vô tình của con người và năm tháng đã hủy hoại đền vào những năm 60 của thế kỷ trước.
Trước năm 1945 xóm Đền thuộc làng Duy Tinh. Trải qua nhiều năm tháng, xóm Đền đổi tên là Phong Mỹ Điện rồi Làng Mỹ Điện như ngày nay.
(Chuyển cảnh bằng hiệu ứng kết hợp nhạc ngắn)
Từ Mỹ điện xuôi phía Đông 500m là xóm Vạn.
Cuối thế kỷ 17, ông Mai Văn Lũy người miền biển Lạch Hới lên định cư đầu tiên làm nghề chài lưới.
Một số bà con vạn chài ở Hòa Lộc lên, Đò Lèn xuống rồi cả Bộ Đầu và Hà Mát sang quần tụ cùng họ Mai, thành xóm nhỏ ven sông làm nghề chài lưới nên gọi là xóm Vạn. Bây giờ gọi là Làng Mỹ Quang. Trước năm 1945, xóm Vạn thuộc làng Bộ Đầu.
Các giáo sĩ phương Tây vào xóm Vạn và xóm Đền truyền giáo hồi cuối thế kỷ 18. Đến nay Mỹ Điện và Mỹ Quang là hai làng công giáo toàn tòng của xã Văn Lộc.
(Chuyển cảnh bằng hiệu ứng)
Gác chuông và Nhà thờ Mỹ Quang xây dựng năm 1926.
Nhà thờ Mỹ Điện xây dựng năm 1937.
Cùng với Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh và gác chuông Hà Mát, tạo nên một nét đẹp Văn Hóa đa sắc mầu của xã Văn Lộc.
(Chuyển cảnh bằng hiệu ứng và nhạc ngắn)
Từ Mỹ Quang theo hướng đông bắc là làng Hà Mát, nằm dọc theo sông Lạch Trường, nhìn ra núi Hà Dò phía Đông.
Vào cuối đời nhà Lê, cụ Vũ Lộc quê Hải Dương có hai con làm quan to trong triều: Người anh là Vũ Đình Giám làm phó tướng, người em là Vũ Đình Thận là Quận công được nhà vua ban điền trang thái ấp.
Họ Vũ xin ở vùng này, đã chiêu dân lập ấp và lập nên làng Hà mát. Họ Vũ bây giờ thường lót là Vũ Danh, đây là dòng họ có truyền thống hiếu học.
(Chuyển cảnh bằng hiệu ứng)
Di tích cổ ở làng Hà Mát chỉ còn lại cái gác chuông ba tầng, rêu phong có nguy cơ đổ nát nay mai, nếu không được trùng tu tôn tạo, dấu tích của một thời sẽ mãi mãi không còn!
(Chuyển cảnh bằng hiệu ứng dài và nhạc)
Qua đoạn sông Cổ ngựa là Làng Văn Xuân, làng mới được thành lập năm 1983, thực hiện chủ trương giãn cư di dân.
Làng Văn Xuân là một làng thuần nông, chủ yếu gồm cư dân 2 làng Duy Tinh và Hà Mát của xã Văn lộc chuyển cư.
(Chuyển cảnh sang Tập 2 bằng clip dân ca Thanh Hóa Đi cấy sáng trăng).

                                                       Tập Hai
         CẦU PHƯỢNG HOÀNG VÀ CHỢ TAM BẢO

Làng Duy Tinh là một làng cổ trên một ngàn năm tuổi.
Năm 1029 Lý Công Uẩn cho dời lỵ sở của Châu Ái (Thanh Hóa) từ Đông Phố Làng Giàng (Thiệu Hóa) về làng Duy Tinh.
Từ đó tính ra gần một ngàn năm, làng ta là lỵ sở của tỉnh Thanh Hoá gần 400 năm, suốt 2 triều đại Lý – Trần.
Rồi tiếp là lỵ sở của phủ Hà Trung thời Phong kiến (Phủ Hà Trung gồm 4 huyện: Hoằng Hóa, Hậu Lộc, Nga Sơn và Hà Trung) sau cách mạng Tháng Tám là trụ sở của huyện Hậu Lộc, mãi đến năm 1984 trụ sở huyện Hậu Lộc mới chuyển xuống Chợ Giầu – Thịnh Lộc.
Làng Duy Tinh còn có tên gọi dân dã: Làng Chợ Phủ ! Vì chợ ở ngay cạnh Phủ Huyện.
(Chuyển cảnh)
Trước cách mạng Tháng Tám làng ta còn có chợ Đình ở đầu xóm Hàng. Chợ họp nhanh vào sáng sớm tinh mơ, nơi trao đổi mua bán chủ yếu là sản phẩm nghề làm vàng giấy.
Một nghề thủ công do bà Hoàng Thái hậu Nguyễn Thị Minh Thụy thời hậu Lê, mang từ kinh thành về dạy cho dân làng.
Hơn một nửa làng làm nghề này. Trẻ con sáu bảy tuổi đã biết ngồi cuốn, tém vàng. Một nghề đơn giản nhưng đã là nguồn sống chính của làng ta suốt một thời kỳ dài. Vậy mới có câu:
Duy Tinh là đất bà Hoàng
Trẻ thơ ba tuổi cầm vàng trong tay
Sau năm 1945 nghề này vẫn còn, đến đầu những năm năm mươi của thế kỷ trước, khi thực hiện chống mê tín, nghề này mới bỏ hẳn.
(Chuyển cảnh bằng hiệu ứng)
Hàng năm vào mùa cấy gặt, chợ Đình còn là chợ lao động. Dân các làng quanh vùng đến chờ người làng ta thuê về làm trong ngày.
Đây là một đặc điểm riêng của làng Duy Tinh, một làng bán nông bán thương. Mấy năm trước, chợ lao động này vẫn duy trì vào mùa vụ tại khu ngã tư chợ Phủ.
(Chuyển cảnh dài và nhạc ngắn)
Chợ Phủ làng ta ngày xưa ban đầu quy mô còn nhỏ, chỉ là chợ trâu bò.
Văn bia Phượng Hoàng ghi như sau: Bản phủ có chợ trâu bò được lệnh sửa lại thành chợ Tam Bảo.
Vào thời Lê trung hưng – tức là thời vua Lê chúa Trịnh – bà cố nội của vua Lê Kính Tông là lão Hoàng Hoàng Thái hậu Nguyễn Thị Minh Thụy người hương Lam Sơn, đã phát tâm thánh phật, cho trùng tu xây dựng lại cầu và chợ làng ta.
Công trình được khởi công vào ngày 12 tháng 7 Ất Mão (6/8/1615), là năm Hoằng Định thứ 15.
Sau khi hoàn thành đặt tên là cầu Phượng Hoàng và chợ Tam Bảo.
Cầu Phượng Hoàng làm bằng đá xanh núi Nhồi, mặt cầu là những phiến đá lớn với đường viền chạm hoa văn tinh xảo.
Gần bốn trăm năm, cây cầu là nút giao thông quan trọng của hai huyện và trong tỉnh. Mãi sau năm 1975, khi cầu xuống cấp mới làm lại như ngày nay.
(Chuyển cảnh nhạc ngắn)
Bà Hoàng Thái Hậu còn cho xây đình chợ, đình ba xã, đình thờ nơi thờ các vị thánh thần. Hàng năm Xuân Thu nhị kỳ đều tổ chức tế lễ linh đình.
Chợ Tam Bảo lúc bấy giờ sầm uất lắm, nhất là các ngày Rằm, Ba mươi và dịp Tết, người các nơi đổ về đông nghịt, ngồi họp cả trên đường cái quan, đi lại phải len chân, thích cánh.
Một tháng có sáu phiên chính, họp vào các ngày 5, 10, 15, 20, 25 và 30 hàng tháng. Đây là chợ trung tâm của Phủ huyện, nên mới có câu:
Chợ huyện một tháng sáu phiên
Gặp cô hàng xén kết duyên Châu Trần
Biết bao đôi, nên duyên chồng vợ qua những lần gặp nhau ở chợ.
Chợ cạnh phủ huyện lại ở bên sông, trên bến dưới thuyền, bán buôn tấp nập. Hàng hóa đủ loại, có Hàng Bè bán luồng nứa gỗ. Thuyền bè trên sông đông đúc, có thuyền chở cát, chở than, chở chum vại, cối đá, đá tảng…cập bến vào ra tấp nập.
Trong chợ có đình chợ, đình ba xã bán vải và tơ lụa. Điều này được ghi lại trên văn bia như sau:
Là nơi khách bốn phương qua lại, của cải hàng hóa buôn bán trao đổi, thật là nơi đến đã lớn, nơi về lại to, là nơi đại đô hội của đất Thang Mộc vậy”.
(Chuyển cảnh bằng hiệu ứng)
Ngoài 6 phiên chính, hàng ngày chợ còn họp vào buổi chiều gọi là chợ Hôm, chủ yếu bán lương thực, thực phẩm. Nhiều nhất là cá biển, do đàn ông chạy cá dổi từ Diêm Phố về chợ cho mẹ và vợ bán.
(Chuyển cảnh bằng hiệu ứng)
Bà Hoàng Thái hậu còn cấp cho làng Duy Tinh 40 mẫu ruộng công điền, để chia cho các xuất đinh trong làng, người đi lính còn được ưu tiên hơn.
Khi lên lão, ruộng công này phải trả lại cho làng, để chia cho trai tráng vào tuổi 18 lớp sau. Việc này thể hiện tính công bằng dân chủ thời phong kiến. Sau năm 1945 ruộng công này vẫn còn duy trì một thời gian.
Từ thời Lê trung hưng, làng ta có xóm Duy Nhất cạnh chợ, dành cho người hương Lam sơn, Nhuệ thôn và Yên Thường là quê hương bà hoàng được ở. Nhưng không được hưởng ruộng công điền. Nên bấy giờ có câu: Duy Nhất có đinh nhưng không có điền là vậy!
Năm 1945 xóm Duy Nhất có 21 hộ với gần một trăm nhân khẩu. Nhưng sau cách mạng tháng Tám đến nay, cộng đồng Duy Tinh Duy Nhất đoàn kết thống nhất, chung tay xây dựng làng Duy Tinh.
(Chuyển cảnh nhạc ngắn)
Đến thời vua Lê Thần Tông, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ chín (1628), vua truyền cho khắc bia: “Trùng tu Phượng Hoàng thị kiều bi” (Bia ghi lại việc trùng tu cầu Phượng Hoàng và chợ).
Văn bia do Lễ bộ thương Nguyễn Thực soạn lời.
Bia đặt trên lưng rùa, dựng tại chợ bên cạnh đình ba xã, nay là các hiệu kinh doanh tại khu ngã tư.
Bia cao 1,62m rộng 1,02m, dày 0,2m. Thân Rùa chiều dài 1,74m, chiều rộng 1,52m, chiều dày 0,44m.
Gần hai thập kỷ sáu mươi, bảy mươi của thế kỷ trước; cửa hàng Bách Hóa huyện Hậu Lộc, đã hạ tấm bia làm bàn giặt một thời gian dài, nên chữ trên bia mờ hết cả.
Các cụ làng ta đã phát hiện, kiên quyết giữ lại tấm bia cho con cháu hiểu rõ và tự hào về một vùng đất văn vật. Hiện tại bia được đưa về cất tại chùa, nhưng đã bị sứt mẻ ở đầu.
Năm 1995 được sự chỉ đạo của Đảng ủy xã Văn Lộc, ông Trần Lợi Tăng bí thư Đảng ủy xã cùng Ban viết sử của làng là các cụ Nguyễn Văn Mậu, Lê Văn Quýnh, Trần Văn Bường, Ngô San, và một số cụ cao niên trong làng, đã tham gia biên tập tài liệu về Bia Phượng Hoàng. Nhưng rất khó khăn vì chữ mờ hết cả.
Rất mừng là gia đình cụ Bạ Thòa tìm được bản chép tay của cụ Trần Lợi Hân. Lúc sinh thời, cụ Bạ Thòa tuy tuổi cao; nhưng suốt một thời gian dài, ngày ngày cụ ra tấm bia khi còn dựng ở chợ, dò chép từng chữ toàn bộ Văn bia.
Xin được ân tưởng công lao cụ Bạ Thòa, đã có một nghĩa cử cao đẹp, nhờ đó ta mới biết được nội dung Văn bia.
Trên cơ sở bản chép tay của cụ Bạ Thòa, cụ Lê Văn Quýnh và cụ Trần Văn Bường đã chép lại đầy đủ văn bản chữ Hán.
Rồi cụ Nguyễn Văn Mậu giáo viên về hưu, lên Thanh Hóa nhờ cụ Lê Văn Uông bậc túc Nho Hán học của tỉnh nhà, người cháu ngoại của làng Duy Tinh, đã dịch toàn bộ văn bia.
Cùng với tấm bia Sùng nghiêm diên thánh tự bi minh. Đây là hai báu vật vô cùng quý giá của làng ta, minh chứng cho sự trường tồn của làng Duy Tinh Chợ Phủ với bề dày lịch sử hơn một ngàn năm!
Chúng tôi thiết nghĩ, tấm bia Phượng Hoàng này nên trả lại vị trí cũ, đặt tại chợ Phủ là chứng tích của một thời bà Hoàng Thái hậu nhà Lê đã có công trùng tu cầu Phượng Hoàng và chợ Tam Bảo, để khách bốn phương qua lại có dịp chiêm bái!
Làm được vậy, chắc rằng hồn thiêng linh ứng của bà Hoàng Thái hậu và các vị tiền nhân đã nhất tâm công đức tiền của để trùng tu xây cầu và chợ, sẽ phù hộ độ trì cho Chợ Phủ ta ngày càng sầm uất hơn!
(Kết thúc Tập 2 bằng một clip ngắn múa quạt)

                                                     Tập Ba
                                             Danh nhân
         LÝ THƯỜNG KIỆT VỚI LÀNG DUY TINH

Thiên nhiên và con người đã tạo tác dáng làng Duy Tinh thành một hình thế kỳ thú, mà bao đời nay mọi người đều thấy rõ: Dáng vẻ làng ta giống hình con voi, với khí thế uy phong lẫm liệt!
Hai chân trước là xóm Thưa và xóm Hàng, hai chân sau là xóm Nạ và xóm Chùa. Cái vòi voi là đường cái uốn cong dọc theo sông Trà lên làng Thái, đuôi voi là đoạn đầu ghềnh, chạy vòng theo sông Trà xuôi về phía Đông.
Đường cái quan là xương sống voi. Bành voi là khu Nghè và Chợ Phủ!
Về cấu trúc địa lý, thiên nhiên đã tạo tác làng ta thành con voi đang nằm phủ phục.
(Chuyển cảnh bằng hiệu ứng)
Nhưng để hoàn chỉnh và ý nghĩa hơn, các vị tiền nhân của làng đã tạo nên bốn con đường, đó là đường kéo dài các xóm Thưa, xóm Hàng, xóm Nạ và xóm Chùa, từ trong làng chạy xuyên qua cánh đồng về phía Đông, đặt chân trên bờ Lũy từ khu Đồn chạy dài về phương Nam.
Vì thế xóm Vũ không thông ra đồng, mà vòng qua xóm Nạ bằng Ngõ Hào là cái bụng voi.
Bởi lẽ xóm Vũ là xóm dành cho quan võ từ thời nhà Lý, nơi đây có Cồn Vũ để luyện quân. Quan võ cưỡi trên bành voi để chỉ huy trận mạc.
Thế là, từ con voi nằm phủ phục, bỗng đứng dậy trên bốn chân. Bốn chân voi, bước đi vững chắc trên Bờ Lũy, hiên ngang dũng mãnh tiến về phương Nam!
Phải chăng nơi đây có sự giao hòa giữa thiên nhiên và con người, để tạo nên một làng quê vừa hiền hòa chân chất, vừa bất khuất kiên cường trong chiều dài lịch sử.
Gợi cho ta một liên tưởng đẹp về con voi chiến của Bà Triệu cưỡi, đánh quân Đông Ngô trên đất Phú Điền Hậu Lộc năm xưa!
(Chuyển cảnh dài và nhạc)
Tìm trong sử sách còn ghi lại, chúng ta rất tự hào được người anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt đã ở làng Duy Tinh 19 năm, trong thời gian ông làm Tổng trấn Thanh Hoa từ năm 1082 đến năm 1101.
Sau khi đánh đuổi quân Tống và lấy lại được châu Quảng Nguyên mà quân Tàu chiếm, uy tín của ông lẫy lừng cả nước.
Vua Lý Nhân Tông (1072 – 1127) coi ông như em nuôi và ban cho ông hiệu Thiên tử nghĩa đệ.
Năm Nhâm Tuất 1082 cử ông trực tiếp vào coi giữ trấn Thanh Hoá.
Vào Thanh Hoá năm 1082 khi ông 64 tuổi và trở lại Triều đình năm 1101 lúc ông đã 83 tuổi.
Tuy tuổi đã cao, nhưng với tài thao lược của một vị tướng tài, ông tiếp tục xây dựng trấn sở của Thanh Hoa là khu Đồn, ở đông bắc làng Duy Tinh về mọi mặt.
Củng cố bộ máy cai trị, động viên nhân dân làm hết sức mình vì lợi ích chung.
Suốt thời gian ông làm Tổng trấn, không những trấn Thanh Hoa yên tĩnh mà cả châu Hoan, và ba châu Bố Chính, Ma Linh, Đaị Lý cũng đều bình yên.
Với quan điểm “dân lấy no ấm làm đầu, nước lấy nghề nông làm gốc”, ông khuyến khích nghề nông, trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa.
Mở mang nghề đánh cá, làm muối, nghề làm rừng, săn thú rừng phục vụ dân sinh. Ông lại cho làm nghề thủ công mỹ nghệ, dò núi tìm đá làm các khí cụ như đẽo khánh đá, làm bia v.v…
Nhờ vậy kinh tế, đời sống của nhân dân Thanh Hóa ngày một khá lên.
Về văn hoá ông mở mang học hành, nâng cao dân trí, xây dựng phong tục tập quán tốt đẹp, xoá bỏ tập tục xấu.
Ông còn chú ý nuôi dưỡng những người già cô đơn ở nơi thôn dã, làm cho ai cũng có cuộc sống an lành.
Về quân sự, tuy đã bình Chiêm phạt Tống thắng lợi; hoà bình đã lập lại, thanh thế nước ta bấy giờ rất lớn, nhưng khi vào nhậm chức ở trấn Thanh Hoa, ông vẫn luôn chú trọng việc quân.
Thường xuyên luyện tập đội quân thường trực, nâng cao trình độ về mọi mặt. Ông thực hiện chế độ ngụ binh ư nông. Nên lực lượng quân sự của trấn Thanh Hoa rất hùng mạnh, có thể đối phó với mọi tình huống bất trắc xẩy ra.
Như vậy, ở Duy Tinh 19 năm, Lý Thường Kiệt đã xây dựng Duy Tinh không những là trung tâm hành chính, mà còn là một căn cứ quân sự; nơi đồn trú quân cơ, là phên dậu trấn giữ phương Nam vững chắc cho Triều đình nhà Lý.
(Chuyển cảnh bằng hiệu ứng và nhạc)
                                                         *
                                                       *  *
Để ghi nhớ công ơn to lớn của Lý Thường Kiệt, đối với Thanh Hóa nói chung và với làng Duy Tinh nói riêng, làng ta đã tạc tượng thờ ông ở chùa. Tượng ông ở ngay gian tiền đường.
Thực ra, việc thờ ông ở chùa chưa xứng với công lao của ông đối với Thanh Hóa.
Suốt 19 năm làm Tổng trấn, Lý Thường Kiệt đã mở mang cho Thanh Hóa phát triển nhiều lĩnh vực về kinh tế Văn Hóa Xã hội và quốc phòng an ninh đều mạnh.
Đặt cơ sở vững chắc cho nền hành chính Thanh Hóa suốt hai triều đại Lý Trần trong 400 năm tại làng Duy Tinh, và cả sau này cho đến năm 1984.
Đúng ra, phải có một quần thể di tích tầm cỡ quốc gia, phải xây đền tạc tượng thờ ông tại khu Đồn.
Phải chăng ta đã lãng quên lịch sử, trong khi lại mắc hội chứng sùng bái cá nhân đương đại, đâu cũng mọc lên nhà tưởng niệm, đền thờ… khắp cả nước, không chỉ một người, mà hàng chục người…con số này đang có chiều hướng gia tăng.
Trường THPT Hậu Lộc 2 ở khu Đồn hiện nay, nên đổi tên là Trường THPT Lý Thường Kiệt.
Sân Trường cần dựng tượng Ông với dáng đứng hiên ngang, khí phách của một anh hùng phạt Tống bình Chiêm sừng sững trên 19 bậc cao; ghi lại 19 năm ông đã làm Tổng trấn Thanh Hoa!
Làm được vậy, con cháu ta hàng ngày đến Trường sẽ thấy ấm áp hơn, bởi có sự che chở bao dung của tiền nhân, như được tiếp thêm sức mạnh, để vững bước trên đường đời.
(Kết thúc Tập 3 bằng một clip ngắn múa nón)

                                                      Tập Bốn
                    CHÙA SÙNG NGHIÊM DIÊN THÁNH

Những di tích xưa của làng ta, đến sau năm 1954 vẫn còn gần như nguyên vẹn: Khu Đồn (nay là Trường cấp 3) bên cạnh là sân vận động.
Sân vận động, do Pháp xây dựng vào những năm bốn mươi của thế kỷ trước. Ngày nay là sân Văn Hóa, Thể Thao của làng và huyện.
Rồi Bờ Lũy, khu Hào, Cồn Chiêng, Cồn Trống, Cồn Vũ, Án sơn, Lăng (nơi dành cho mộ các nhà quan, nay là Trường Mầm non bán công).
Bái Vươn nay là nghĩa địa cách làng trên 1 km, đảm bảo vệ sinh môi trường, nhưng cần được quy hoạch, hợp lý trong xây cất, đậm nét truyền thống dân tộc.
Đền Phong Ngãi, Chùa Vải, Chùa Chung (nay là trường phổ thông cơ sở và Trường tiểu học Văn lộc), Đình, Đền, Miếu, Phủ, Hiền Chỉ (nay là Trạm xá), Nghè, Đình Chợ, Đình thờ… chỉ còn lại trong ký ức những người cao tuổi mà thôi.
Đâu rồi Cây đa chùa Chung, Cây đa con, Cây đa giếng Hào, Cây đa tán áp làng Thái, Cây vông Vươn, Hàng phượng đường cái quan?
Hiện chỉ còn cây đa Thổ Thàng có nguy cơ chết dần, nếu không được chính quyền và mọi người quan tâm.
Giếng Quai, Giếng Phỏ, Giếng Nạ, Giếng Hào, Giếng Huyện, Giếng Chùa… Nhưng bây giờ không còn nữa.
Hiện còn Ao Sen (nước Ao Sen vừa trong vừa ngọt, cả làng gánh nước về làm nước uống; đặc biệt nước Ao Sen pha chè Tàu rất ngon, hương thơm vị đậm!)
Ao sen làm đẹp thêm cảnh quan của Đài tưởng niệm Liệt sĩ và Nhà Văn Hóa Làng, cần đầu tư nâng cấp khu vực này, cho công trình Văn Hóa ngang tầm với bề dầy Lịch sử của Làng!
Cuối những năm 50 của thế kỷ trước, sau khi hoàn thành cuộc CCRĐ long trời lở đất, nông dân vùng lên đánh đổ giai cấp địa chủ, thực hiện người cày có ruộng.
Tiếp đến là phong trào HTX. Suốt hai thập kỷ sáu mươi và bảy mươi của thế kỷ trước! Người người hừng hực xông lên xốc tới, cả nước là một đại công trường, tiến hành sát nhập xã, huyện, tỉnh để làm ăn lớn!
Với khí thế xung thiên “thay trời đổi đất, xếp đặt lại giang sơn” để xây dựng cuộc sống mới!
Trong cuộc xếp đặt lại giang sơn này, phần lớn những di tích xưa của làng ta mãi mãi không còn.
Những cây cổ thụ được hạ xuống đóng bàn học trò và làm nhà.
Bờ Lũy từ khu Đồn xuôi tận chùa Chung, mặt Lũy rộng hàng chục mét, với nhiều cây bóng mát… được san phẳng thành ruộng.
Khu Đồn được xây dựng thành cơ quan Lương thực của huyện, rồi là Trường cấp 3. Đất chùa làm trụ sở công an…
Trong quá trình khai phá làm gạch và xây nhà, đã phát hiện nhiều cổ vật nằm dưới lòng đất, như bát đĩa sứ, tiền đồng, đá tảng chạm hoa văn… Nhất là đồ gốm nung từ thời Lý – Trần. Nhưng rồi thất lạc cả.
Chúng tôi chụp được hình ảnh một cổ rồng bằng gốm nung, nằm lăn lóc bên bờ ao sen. Được biết phần trên là đầu Rồng rất tinh xảo, còn nguyên cả râu rồng, liệu có còn không?.
Mấy phiến đá chạm rồng, và một số cổ vật nhà chùa phải cất kho, sau vụ mất bộ tượng Tam Thế vào năm 2010, có tuổi đời trên 400 năm.
Làng ta nên có cuộc vận động thu gom những hiện vật cổ, trưng bày tại Nhà Văn Hóa, cho hôm nay và mai sau mọi người rõ và tự hào về bề dày lịch sử của làng.
Hiện tại chỉ còn một số rất ít di tích, minh chứng cho tuổi của làng hơn một ngàn năm tuổi, đó là tấm bia và ngôi chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh.
(Chuyển cảnh bằng hiệu ứng và nhạc)
Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh được trùng tu xây dựng lại năm 1116, để ghi nhớ sự kiện vua Lý Nhân Tông đi tuần phương Nam, đến địa hạt Châu Ái, đã về Làng Duy Tinh là lỵ sở Trấn Thanh Hoa bấy giờ.
Sau khi vua hồi cung, để phúc đáp ơn vua và chúc quốc vận trường tồn; Thông phán Chu công, người trị nhậm địa hạt Trấn Thanh Hoa liền triệu tập bô lão trong làng và các thuộc lại trong Trấn, quyết định trùng tu xây dựng lại chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh.
Dân làng Duy Tinh đã hăng hái tham gia đóng góp sức người, sức của cho việc xây lại chùa và làm bia. Sau hai năm trùng tu xây dựng, Chùa đã hoàn thành.
Tấm bia dựng ngày 18 tháng 10 năm Mậu Tuất, niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ chín (1118).
Bia cao 2,02 m, rộng 1,22 m trang trí đẹp, kiểu dây leo và rồng xoắn đời Lý. Bài Văn bia tựa đề là “Sùng Nghiêm Diên Thánh tự bi minh” do Thông thiền Hải chiếu đại sư, tứ tử thích PHÁP BẢO soạn lời.
Bài Văn bia đã được in trong Tập 1 cuốn Thơ Văn Lý Trần (Trang 368) xuất bản lần đầu năm 1977 của Nhà Xuất Bản KHXH
Tấm bia hiện để ở nhà bia trước chùa. Rất đau lòng là bom đạn của Pháp và Mỹ đã làm sứt vỡ một số chỗ không còn chữ. Một dấu tích tội ác của quân xâm lược, găm vào Lịch Sử làng ta!
Hiện nay nhà chùa có kế hoạch phục chế lại tấm bia đúng với nguyên bản khi giáo sư Hoàng Xuân Hãn về khảo cứu và chụp ảnh tấm bia năm 1943.
Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh đã được Bộ Văn Hoá xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 13/3/1990.
Chúng tôi đã gặp nhà sư Thích Đàm Tâm. Sư cụ Thích Đàm Tâm trụ trì ở chùa Sùng nghiêm Diên thánh trên 50 năm.
Cuộc đời và sự nghiệp của cụ đã trải thăng trầm và biến cố qua bao năm tháng, cùng với ngôi chùa và làng cổ Duy Tinh – Chợ Phủ.
Trong buổi trao đổi trên tinh thần Giác tha, nghĩa là không những giác ngộ cho mình mà còn tìm phương pháp giác ngộ cho kẻ khác. Cụ lần giở từng trang và đọc đoạn ghi trên Văn bia:
“…Ở phía Tây Nam thành có di tích ngôi chùa cổ, nền cũ mà gạch ngói vẫn còn, nhà cửa thì cỏ gai đã mọc… Hai cửa khuyết khống chế phía trước, ba dòng sông ôm ấp phía sau. Thanh tĩnh tịch mịch, thực là nơi trụ trì của nhà Phật, nơi gửi gấm tâm tư của Bồ tát.”.
Điều này minh chứng Làng ta đã có trước khi nhà Lý dời đô từ Hoa Lư về Thăng long năm 1010. Như vậy làng ta đã hơn một ngàn năm tuổi. Đương nhiên chùa Sùng Nghiêm diên thánh cũng cùng tuổi với làng.
Khi trùng tu xong, ngôi chùa khá quy mô hoành tráng. Văn bia còn ghi rõ:
Ngắm xem: Rường nhà cong cong như cầu vồng sau mưa quạnh quẽ nhô ra, ngói uyên ương phơi dưới gió như sập sè múa lượn.
Nóc nhà uốn như trĩ bay xòe cánh; đấu chạm trổ như phượng múa lai chầu. Mái cong lấp lánh dưới ánh mặt trời, hiên lượn quanh co trước gió.”
Đọc đoạn văn bia trên, ta có thể hình dung ngôi chùa lúc bấy giờ uy nghi và tráng lệ lắm. Thời nhà Lý rất sùng đạo Phật, các chùa được xây dựng nhiều và rất to đẹp là điều dễ hiểu.
Nhưng trải qua bao biến cố, chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh đã nhiều lần thay đổi. Sau năm 1955 gác chuông và Tam quan không còn, phạm vi đất chùa cũng thu hẹp lại.
Chỉ có tấm bia là trơ gan cùng tuế nguyệt, nhờ vậy mà ta biết được làng ta đã hàng ngàn năm tuổi.
Sư Thích Đàm Tâm cùng với các thiện nam tín nữ và dân làng đã giữ gìn, sửa sang ngôi chùa đến sau năm 1975, chùa chỉ còn lại một khu nhà 5 gian phía trước và dãy nhà ngang phía sau.
Sau khi chùa được xếp hạng di tích cấp quốc gia. Được sự quan tâm của chính quyền các cấp. Dân làng Duy Tinh cùng với sự hằng tâm công đức của thiện nam tín nữ và nhân dân các nơi, tham gia đóng góp tiền của.
Hơn 10 năm nay, chùa vẫn tiếp tục trùng tu tôn tạo cho xứng tầm với ngôi chùa cổ hơn một ngàn năm tuổi.
Cảnh quan thanh tĩnh, trầm mặc uy nghi của chốn thiền môn. Làm cho mỗi khách vãng cảnh lòng thêm thư thái.
Vượt qua cầu đá bắc trên hồ sen, ta nhìn rõ dòng chữ “Sùng nghiêm diên thánh tự” là tên ngôi chùa.
Vào phía trong vẫn còn là một công trình trùng tu tôn tạo dở dang, nhưng ngày ngày vẫn vang xa tiếng chuông chùa mỗi sáng mỗi chiều, làm ta nao lòng về một vùng quê yêu dấu.
(Chuyển cảnh và nhạc)
Hàng năm chùa Làng Duy Tinh mở Lễ hội vào ngày mồng tám tháng hai, và kéo dài 3, 4 ngày liền.
Những ngày đầu năm cũng là dịp vui Xuân sau một năm lao động vất vả.
Mọi người đến Chùa cầu cho quốc thái dân an, mong một năm an lành cho mọi nhà, mọi người luôn khỏe mạnh và thịnh vượng an khang!
(Kết thúc Tập 4 bằng trích đoạn clip ngắn: Vào chùa do nghệ sĩ Thu Huyền hát)

                                                      Tập Năm
                                    DUY TINH NGÀY MỚI

(Chuyển cảnh và nhạc nền)
Với bề dầy truyền thống hơn một ngàn năm, làng Duy Tinh suốt 70 năm qua dưới chế độ dân chủ cộng hòa và xã hội chủ nghĩa, đã có những bước phát triển mạnh mẽ về mọi mặt.
Cùng với Hanoi, ngày 19 Tháng Tám năm 1945, nhân dân Hậu Lộc đã tiến hành cuộc khởi nghĩa. Tự vệ Làng Duy Tinh cùng với tự vệ Huyện đã chiếm phủ đường vào đêm 19 tháng Tám. Tri huyện Lê Chí Hoan đầu hàng vô điều kiện, bàn giao công sở và dấu cho cho chính quyền cách mạng.
Một trang sử mới được mở ra. Làng Duy Tinh đỏ cờ trong niềm vui Độc Lập Tự Do.
Vừa thoát khỏi ách nô lệ, chúng ta lại trải qua các cuộc kháng chiến đánh Pháp đuổi Mỹ, chống Tàu bành trướng để giữ gìn biên cương đất nước.
Nhân dân làng Duy Tinh cùng cả nước phải gồng mình lên, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, khẳng định ý chí Không có gì quý hơn độc lập tự do để xây dựng quê hương đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, điều hành thực hiện của chính quyền, sự đoàn kết của các đoàn thể và các tầng lớp nhân dân trong Mặt trận Tổ quốc, dân làng Duy Tinh quyết tâm xây dựng quê hương, đã có những bước đi vững mạnh trên tất cả các lĩnh vực. Nhất là từ khi Đảng ta khởi xướng công cuộc đổi mới.
Đời sống kinh tế phát triển mạnh mẽ. Không còn cảnh chạy ăn từng bữa lần hồi cuốc rau má, để mang vạ là phá đường tàu! Ăn ngon mặc đẹp là nhu cầu bình thường.
Nhà tranh vách đất được thế chỗ bằng những ngôi nhà cao tầng, không ít những ngôi biệt thự khang trang. Nhà cổ hàng trăm năm được cải tạo nâng cấp, còn đâu bóng dáng của một thời để nhớ!
Lũy Tre Làng vây bọc chặt chẽ bao đời, đã bị phá toang và cuốn phăng đi, bởi tốc độ vũ bão của cơn lốc cơ chế thị trường.
Đường làng ngõ xóm đều bê tông hóa, làng thành phố. Lớp trẻ không hình dung được đĩa đèn dầu là gì, họ chăng đèn điện, kết hoa đăng mỗi dịp Tết đến Xuân về.
(Chuyển cảnh – nhạc vui sôi nổi)
Gần một ngàn năm, làng Duy Tinh đã từng là trung tâm hành chính, kinh tế của tỉnh Thanh Hóa rồi của Phủ và của Huyện. Lại ở vào vị trí giao lưu với nhiều vùng, nên làng ta có đặc trưng riêng:
Một làng bán nông bán thương đa ngành nghề, ngoài làm ruộng và đi buôn còn có nhiều nghề thủ công như nghề rèn, nghề đóng cối xay, làm vàng mã, mở xưởng giấy, thợ nề.
Nghề mộc nổi tiếng trong tỉnh là khéo tay về làm nhà luồng, vì mộng luồng phụ thuộc vào độ cong của cây, nên đục và vào mộng phải có kỹ thuật cao.
Nghề đan lát thúng mủng dần sàng kên nơm, nhủi tép và nong nia rổ rá…
Phố chợ, có thợ chữa đồng hồ, máy may, chụp ảnh, sửa xe. Hiệu thuốc bắc, hiệu sách, cửa hàng tạp hóa, hiệu ăn. Ẩm thực đã có thương hiệu từ xưa nhất là dò chả, nem chua và bánh dày dò.
(Chuyển cảnh)
Duy Tinh là đất hiếu học, khá đông người làm nghề giáo. Trước đây trong làng có hàng chục thầy đồ dạy chữ Nho. Nhiều thầy đồ ra kinh bắc dạy học và ở lại các tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương…làm quê hương thứ hai. Con em trong làng không ít người theo học Trường Pháp Việt ngay tại làng.
Bây giờ các Trường cấp 1, cấp 2, cấp 3 đều ở làng, rất thuận lợi cho con cháu đi học. Trên 80% gia đình có người học Đại Học, có nhà có 2, 3 người là thạc sĩ, tiến sĩ.
Hiện nay có hơn một trăm người là giáo viên từ Mầm Non, cấp Tiểu học đến các trường Cao đẳng Đại học và Học viện.
Nhiều nhà tuy khó khăn về kinh tế, nhưng vẫn lo cho con ăn học đến nơi đến chốn. Thời nào cũng có người đỗ đạt cao.
Năm 1941, cụ Lê Trần Kềnh được vua Bảo Đại trao phần thưởng đạt giải nhất trong kỳ thi học sinh giỏi, vua sức cho quan huyện phải tổ chức lễ đón. Làng mang kiệu để rước bằng và phần thưởng.
Ngày nay được phong trào khuyến học chăm lo, hàng năm con cháu thi đỗ vào các trường Đại Học, Cao Đẳng luôn đạt tỷ lệ cao trong huyện. Chi 3 họ Nguyễn được khen thưởng là dòng họ hiếu học tiêu biểu cấp Tỉnh.
Năm 2005 ông Trần Kềnh xóm Tinh Anh, một thương binh nặng đã được Bộ Giáo Dục, Hội Khuyến học và Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam tặng danh hiệu «gia đình hiếu học tiêu biểu».
Hiện có trên 20 người là Giáo sư Tiến sĩ, Thạc sĩ, Tiến sĩ Khoa Học đảm trách những vị trí trọng yếu các nơi như: Viện Toán, Đại Học Bách Khoa, Đại Học Giao Thông, Đại Học Thủy Lợi, Kinh Tế Quốc Dân, Học Viện Quân Sự, Văn phòng Quốc hội…
Trong đó có Giáo sư Tiến sĩ Khoa học, Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Thiện Phúc, Hiệu phó Trường ĐHBK Hanoi và là Chủ tịch Hội Khoa học Công nghệ Robot Việt Nam.
Không ít người phát triển trong lĩnh vực Kinh Tế, và doanh nhân thành đạt, có cương vị cao trong các tổng công ty danh tiếng như Dầu Khí, Truyền thông đa phương tiện…
(Chuyển cảnh)
Năm 1996, Bộ Văn Hóa – Thông Tin tổ chức Hội thảo về làng văn hóa, Duy Tinh được đại diện cho Thanh Hóa báo cáo, và là một trong 30 làng của cả nước được vinh danh là Làng Văn Hóa cấp Quốc gia. Là một trong 10 làng tiêu biểu các tỉnh phía Bắc.
Hiện nay thực hiện phong trào «Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống Văn Hóa ở khu dân cư» và «Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới». Duy Tinh đã có những bước chuyển biến mạnh về mọi mặt trong việc thực hiện 19 tiêu chí.
Hạ tầng cơ sở hoàn chỉnh. Điện, Đường, Trường, Trạm đầy đủ và chất lượng, đường làng ngõ xóm phong quang, vệ sinh môi trường xanh sạch đẹp. Đời sống được nâng cao, không có hộ đói. Trạm xá có bác sĩ chăm sóc sức khỏe cho mọi người.
Nếp sống Văn Hóa lành mạnh, giữ gìn bản sắc dân tộc đạo hiếu, trên kính dưới nhường, thờ cúng tổ tiên nhớ về nguồn cội. Nhiều dòng họ xây cất Nhà thờ khang trang đẹp đẽ.
Không còn hủ tục lạc hậu trong tang ma, lễ hội, sóc vọng ngày Tết và cưới hỏi. Đám cưới có tục mời trầu cả làng, một nét đẹp từ xưa vẫn còn.
(Chuyển cảnh clip cờ bay và nhạc)
Hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững chắc. Bốn thôn Tinh Anh, Tinh Hoa, Tinh Phú, Tinh Lộc trong làng Duy Tinh đều có chi bộ Đảng với trên 160 đảng viên, chính quyền và đoàn thể vững mạnh. An ninh chính trị, trật tự xã hội được ổn định.
Văn Hóa thuần Việt được chọn lọc với những nét tiêu biểu: Lòng yêu quê hương đất nước sâu đậm, cần cù, nhân ái, thuần hậu, vị tha… sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cao đẹp của Tổ quốc.
Trong các cuộc kháng chiến giữ nước của dân tộc thời kỳ hiện đại, quê ta có 81 người con mãi mãi không trở về. Trong đó liệt sĩ chống Pháp:13 người, liệt sĩ chống Mỹ: 61 người. Liệt sĩ chống quân Tàu bành trướng: 7 người.
Xin được kính cẩn thắp nén tâm nhang trước linh hồn các đồng đội của tôi.
Bây giờ các anh, các chị về quê hương lặng yên bằng những dòng chữ ghi họ tên, nhưng đất mẹ Văn Lộc – Duy Tinh luôn mãi mãi ôm các anh chị trong vòng tay ấm áp, bởi các anh chị đã hy sinh cho sự nghiệp cao cả của non sông đất nước và cho chính quê hương Duy Tinh – Văn Lộc yêu thương!
Xin được tri ân các mẹ Việt Nam anh hùng, đại diện tiêu biểu cho các bà mẹ quê ta, đã sinh ra những người con làm rạng rỡ tên Duy Tinh – Văn Lộc, trên tất cả các lĩnh vực trong chiến đấu xây dựng quê hương đất nước .

Đi khắp bốn phương
Vẫn luôn nhớ về Chợ Phủ
Nơi mẹ ta lam lũ váy đụp áo nâu
Sáng lội đồng sâu,
Chiều rạc chân chạy chợ.
Tối khuya về,
Ru con trong mơ ngủ.
Bên ướt mẹ nằm bên ráo phần con

Nay bạc trắng mái đầu,
Ta vẫn không hết nợ,
Nghĩa nặng ân tình đất mẹ Duy Tinh.
                                              *
                                            *  *
Duy Tinh ngày mới đang có bước đi mạnh mẽ trên tất cả mọi mặt. Mười sáu họ lớn trong một làng, nhưng không cục bộ bè phái. Sống trọn tình vẹn nghĩa, mọi công to việc nhỏ đều có nhau. Chung tay đoàn kết vì công việc cộng đồng.
Trong nhà thì trên dưới hiếu đễ, biết bảo nhau giữ gìn nền nếp gia phong;
Ngoài xã hội thì luôn trọng nhân cách, trung thực đạo làm người.
Phát huy truyền thống tốt đẹp của Làng.
Thực xứng danh với tên gọi: Làng DUY TINH!
                                                 *
                                               *  *
Kết thúc Video bằng một clip ngắn pháo hoa trên nền nhạc Quê Hương và lời Cám ơn:
Trong phim có sử dụng một số clip và hình ảnh trên mạng để minh họa
– Bài hát Tình ca Hậu Lộc do ca sĩ Anh Thơ trình bầy.
– Cám ơn các cụ trong làng đã cung cấp tài liệu và góp ý trao đổi.
– Cám ơn quý vị đã xem phim,.
– Cám ơn sư cụ Thich Đàm Tâm.
Tháng Tư năm Nhâm Thìn – 2012
Nguyễn Quý Phong

Xem thêm

Nội dung mặt trước bia Trùng tu Phượng Hoàng thị kiều bi

Nội dung mặt trước bia Trùng tu Phượng Hoàng thị kiều bi

* Nguyên văn chữ Hán : 重修鳳凰市橋碑 重修鳳凰橋施本府市牛市為三寶碑銘 常謂水上爲梁所以度行人之來往日中爲市所以通天下之貨財惟此鳳凰橋本府市介在永福淳祐之間土高爽塏地廣坦平行客之所往来貨財之所貿易真湯沐邑中大去大来大都會處也迩因星霜屡阕風景頓殊時人不能無燕麥鬼葵之感。 恭惟 世宗毅皇帝老皇皇太后以天下母爲佛中聖心福地目慈天發無量之心種將来之福當時達官及諸善信人咸願爲之助費閨錢腰帯怡然壹舍荆木昆瓦駢然四来廼於。 弘定拾五年柒月拾弍日旦伐蠲恊穀徠起鳩工離娄之明以督其绳公輸之巧以削其墨經之营之不浹旬而未雨之龍止齎之虹已橫跨於波上矣水由地中行人從橋上達原本府市玆施三寳致天下之人聚天下之貨商賈之居行共便貨財之貿易皆通举欣欣然誾誾然於帝日帝天之下咸熙熙焉皡皡焉於王途王路之中會其有極歸于有極普荷吾。 帝王萬萬年建極錫福之功大矣是則斯橋之作斯市之施其及人之功之德顧可量耶以此河沙慶善于祿百福于其身于其子孫穆穆皇皇绵绵延延祚胤处处基圖鞏固其億萬年無彊之休乎。 銘曰: 帝鄉福地,鳳凰橋名,規摸雄麗,制度恢宏,雲飛畫棟,雨捲惟亮,棟扶圖祚,磐奠瑤京,義取噬嗑,市会日中

By Quý Phong