LÀNG CỔ DUY TINH NƠI PHÁT TÍCH DANH XƯNG THANH HOÁ

LÀNG CỔ DUY TINH NƠI PHÁT TÍCH DANH XƯNG THANH HOÁ

(Kỳ 2)
PHẦN THỨ HAI

NHỮNG MỐC LỊCH SỬ LỚN CỦA
LÀNG CỔ DUY TINH THỜI PHONG KIẾN

         Khi Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Thăng Long năm 1010, ông cũng cho dời lỵ sở trấn Thanh Hoa (Tên Thanh Hoá xưa) từ Đông Phố – Làng Giàng – Thiệu Hoá về làng Duy Tinh.
        Tên Thanh Hóa với tư cách là đơn vị hành chính, trực thuộc Trung ương xuất hiện năm 1029. Căn cứ này được ghi trong cuốn “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” bộ chính sử của thời Nguyễn.

        Năm 1029 danh xưng Thanh Hoá ra đời, lỵ sở Thanh Hoá đã ở làng Duy Tinh. Như vậy làng Duy Tinh là nơi phát tích danh xưng Thanh Hoá.

        Suốt 418 năm, từ 1010 đến 1428 làng Duy Tinh là lỵ sở của trấn Thanh Hoa (Tên tỉnh Thanh Hoá xưa) qua các triều đại Lý – Trần – Hồ – Hậu Trần và thuộc Minh 20 năm. Mãi đến năm 1428 khi Lê Lợi đánh thắng quân Minh và lên ngôi, mới dời lỵ sở Thanh Hoá về Làng Hạc cho đến ngày nay

       Từ năm 1428 đến năm 1945 làng Duy Tinh là lỵ sở của Phủ – Huyện và Xã. Lúc này trụ sở Phủ – Huyện không ở khu Đồn nữa, mà chuyển về khu đất phía Bắc Chợ, bên phải đường từ ngã tư ra cầu Phủ. Ban đầu là Phủ Thuỵ Nguyên, rồi Phủ Thuần Hựu, Phủ Hà Trung (Phủ Hà Trung xưa gồm 4 huyện Hoằng Hoá, Hậu Lộc, Nga Sơn và Hà Trung). Đến triều Nguyễn, Phủ Hà Trung chuyển lỵ sở ra Bình Lâm, Duy Tinh là lỵ sở huyện Thuần Lộc rồi huyện Hậu Lộc.
        Là huyện lỵ, nhưng công sở khá đơn giản. Huyện đường Hậu Lộc dưới thời nhà Nguyễn ở khu đất phía Bắc chợ, chỉ có một nhà ngói 5 gian rộng là công sở làm việc. Tri huyện là người tỉnh khác bổ về gọi là “quan”. Quan ở trong tư thất riêng phía trong. Bên cạnh là nhà giam, nơi làm việc của đội lệ. Dưới quan có đề lại, lục sự, thừa phái, đội lệ, huấn đạo. Tất cả gọi là “thầy” cũng là người khác huyện bổ về. Các thầy phải mượn nhà trọ trong dân, hàng ngày nghe trống đánh các thầy đến làm việc.
Đề Lại là viên chức quan trọng, giúp tri huyện quản lý hệ thống viên chức ở dưới như cai tổng, phó tổng, lý trưởng, phó lý… Lục Sự trông coi việc pháp lý như kiện tụng. Thừa Phái trông coi việc thuế má, đê điều. Đội Lệ trông coi việc trật tự trị an. Huấn Đạo trông coi việc giáo dục.
        Bấy giờ làng Duy Tinh có “đặc ân” riêng, lính tuyển vào làm việc ở huyện nha, chỉ lấy người làng Duy Tinh, gọi là lính lệ. Mới vào gọi là “bếp”. Lâu năm được thưởng chức Cửu phẩm, Bát phẩm. Duy Tinh có nhiều Cửu phẩm, Bát phẩm là như vậy. Bây giờ nhiều người vẫn nhớ còn gọi các ông: Cửu Xe, Cửu Đỉnh, Cửu Then, cửu Diệp, cửu Hướng, cửu Vuông, cửu Ái, bát Trạch, bát Tàm, bát Thốn, đội Mỳ, đội Chản, bếp Phiêu, bếp Ngọ.
Sau năm 1945 làng Duy Tinh là trụ sở huyện Hậu Lộc. Cơ quan huyện ở vị trí công sở xã bây giờ. Ngân Hàng ở khu huyện lỵ cũ, còn các phòng, ban mượn nhà dân làm việc. Đến năm 1984 trụ sở huyện Hậu Lộc mới chuyển xuống Chợ Giàu xã Thịnh Lộc. Cũng từ năm 1945 đến nay làng Duy Tinh là trụ sở của xã Thuần Lộc cũ, rồi xã Văn Lộc và hiện nay lại là trụ sở xã Thuần Lộc.
        Ở Việt Nam chưa có làng nào là lỵ sở của Tỉnh, của Phủ, của Huyện rồi của Xã hơn một ngàn năm như làng Duy Tinh. Đã có học giả gọi làng Duy Tinh là “Thăng Long ngoại trấn!”
         Hệ thống quản lý hành chính ở làng dưới thời nhà Nguyễn cũng đơn giản. Lý trưởng là người có quyền cao nhất, giữ “đồng triện” (Con dấu). Phó lý chỉ là hư vị không có quyền hành gì. Hương bạ coi việc sổ sách, sinh tử, giá thú. Hương bản là thủ quỹ. Hương mục coi việc đồng áng. Hương dịch coi việc phu phen, Hương kiểm coi việc tuần phòng trị an.
Tất cả làm việc tại nhà. Đến kỳ thu thuế lý trưởng ra Đình Nghè làm việc. Những ngày thu thuế cả làng náo loạn, ở Đình Nghè trống đánh ngũ liên dồn dập, tuần đinh đi khắp các ngõ, vào từng nhà thúc dục. Dục 3 lần không ra, sẽ bị trói lại giải ra Đình Nghè, đưa lên huyện giam, khi nào nộp đủ mới được thả!
         Đình Nghè làng Duy Tinh xưa ở trên mảnh đất nhà ông Cầm hiện nay bán lương thực. Phía dưới sát bờ sông là nhà cụ Phó Ngãi. Sỡ dĩ gọi là Đình Nghè, vì bà Hoàng hậu đã xây đình ở chợ rồi. Một làng không thể có hai đình. Đình Nghè có bốn gian rộng, trông về hướng Nam. Gian trong cùng có tường hậu và xây kín hai bên, mặt trước là cửa gỗ đóng kín. Bên trong giữa gian bệ thờ có tượng thần Cao Sơn độc cước – Thành Hoàng Làng – và đồ tế khí, chấp kích bát bửu, ngựa gỗ. Trên cao là bức hoành phi: “聖宮萬歲Thánh cung vạn tuế”. Làng chỉ mở cửa cúng tế vào đầu Xuân.
         Ba gian ngoài để trống cả ba mặt, không có cửa nhả gì. Hai bên chỉ xây tường gạch, cao độ một mét để ngăn cách với bên ngoài. Trước Đình Nghè là khoảng sân đất rộng, từ cửa Đình Nghè trông ra cuối sân là bức bình phong xây cao, phía ngoài là một cây hoa ngọc lan rất to cao, hàng trăm năm tuổi. Đến mùa hoa ngọc lan nở, thơm lừng cả một vùng; suốt dọc đường cái quan đều thoang thoảng mùi hoa ngọc lan.
Ba gian đình nghè là Trụ sở hành chính của làng, nơi làm việc của lý trưởng trong mùa thu thuế; nơi hội họp của Hội đồng tư vấn, Hội đồng lý hương. Không có bàn ghế, khi nào hội họp, mõ làng quét tước sạch sẽ, trải chiếu theo chiều dọc. Các vị ra họp, ngồi theo ngôi vị của mình. Dãy chiếu trong, ngồi trên là ông tiên chỉ (người có phẩm hàm cao nhất trong làng), tiếp đến các vị trong Hội đồng tư vấn. Dãy chiếu ngoài là của Hội đồng lý hương. Ngồi trước là lý trưởng, tiếp đến là phó lý, hương bạ, hương bản, hương mục, hương dịch, hương kiểm. Không ai được phép ngồi lộn xộn.
        Ở đầu ngõ Vũ, có một cái điếm canh ba gian, xây gạch lợp ngói là trụ sở của tuần đoàn. Điếm ngảnh mặt hướng nam, đầu hồi có ba chữ nho: “巡團店Tuần đoàn điếm”. Hai bên cửa có đôi câu đối:
有土有財資有用 Hữu thổ hữu tài tư hữu dụng.
隨時隨世又隨人 Tùy thời tùy thế hựu tùy nhân
       Thể hiện cách xử lý việc làng vừa công bằng, vừa có tình làng nghĩa xóm! Bên trong điếm dựng một dãy gậy tre đực to bằng cổ tay, dài hai mét, đầu gậy cuộn một khúc dây thừng. Trên tường có treo mấy cái tù và bằng sừng trâu và ốc biển, đó là vũ khí và phương tiện làm việc của tuần đoàn.
        Đội tuần phòng của làng thường xuyên có 20 thanh niên đến tuổi 18 “đảo tuế”. Tối nào cũng có 3 người trực tại Điếm canh (ở đầu ngõ Vũ). Có nhiệm vụ đi tuần từ “nội gia cư đáo ngoại đồng điền” (Từ trong làng ra ngoài đồng). Ban đêm thỉnh thoảng lại vang lên tiếng tù và thổi “tú um…tú um um…!”, lúc ở trong làng, khi ở ngoài đồng, báo hiệu mọi người biết tuần làng vẫn làm việc. Gặp trộm cắp hoặc gây rối mất trật tự, cứ trói gô lại giải về điếm để Hương Kiểm giải quyết. Nhẹ thì phạt tiền, nặng thì giải lên Huyện!
        Tiến trình lịch sử từ khi lập làng trải dài dưới chế độ Phong kiến đến năm 1945, làng cổ Duy Tinh có 3 mốc lịch sử lớn, để lại dấu ấn sâu đậm; ảnh hưởng đến sự phát triển về mọi mặt của làng cổ Duy Tinh.
(Còn nữa – Kỳ 3 Đăng tiếp)
Nguyễn Quý Phong

Xem thêm

Nội dung mặt trước bia Trùng tu Phượng Hoàng thị kiều bi

Nội dung mặt trước bia Trùng tu Phượng Hoàng thị kiều bi

* Nguyên văn chữ Hán : 重修鳳凰市橋碑 重修鳳凰橋施本府市牛市為三寶碑銘 常謂水上爲梁所以度行人之來往日中爲市所以通天下之貨財惟此鳳凰橋本府市介在永福淳祐之間土高爽塏地廣坦平行客之所往来貨財之所貿易真湯沐邑中大去大来大都會處也迩因星霜屡阕風景頓殊時人不能無燕麥鬼葵之感。 恭惟 世宗毅皇帝老皇皇太后以天下母爲佛中聖心福地目慈天發無量之心種將来之福當時達官及諸善信人咸願爲之助費閨錢腰帯怡然壹舍荆木昆瓦駢然四来廼於。 弘定拾五年柒月拾弍日旦伐蠲恊穀徠起鳩工離娄之明以督其绳公輸之巧以削其墨經之营之不浹旬而未雨之龍止齎之虹已橫跨於波上矣水由地中行人從橋上達原本府市玆施三寳致天下之人聚天下之貨商賈之居行共便貨財之貿易皆通举欣欣然誾誾然於帝日帝天之下咸熙熙焉皡皡焉於王途王路之中會其有極歸于有極普荷吾。 帝王萬萬年建極錫福之功大矣是則斯橋之作斯市之施其及人之功之德顧可量耶以此河沙慶善于祿百福于其身于其子孫穆穆皇皇绵绵延延祚胤处处基圖鞏固其億萬年無彊之休乎。 銘曰: 帝鄉福地,鳳凰橋名,規摸雄麗,制度恢宏,雲飛畫棟,雨捲惟亮,棟扶圖祚,磐奠瑤京,義取噬嗑,市会日中

By Quý Phong